Logo

Top 13 mẫu phân tích cảnh đợi tàu trong Hai đứa trẻ hay và đặc sắc nhất

Thông qua các mẫu phân tích cảnh đợi tàu trong Hai đứa trẻ của nhà văn Thạch Lam mà chúng tôi đã tổng hợp. Hy vọng sẽ giúp các em học sinh có thêm nhiều ý tưởng khi phân tích cảnh đợi tàu trong tác phẩm Hai đứa trẻ đầy đủ cả về mặt nội dung và nghệ thuật, đạt điểm tối đa trong các kì thi.
5.0
2 lượt đánh giá

Tuyển chọn 13 mẫu phân tích cảnh đợi tàu trong tác phẩm Hai đứa trẻ hay và nổi bật nhất được bài viết tổng hợp một cách đầy đủ. Giúp các em học sinh trau dồi kiến thức và rèn luyện kỹ năng phân tích. Theo dõi ngay dưới đây.

Tham khảo thêm:

Dàn ý phân tích cảnh đợi tàu trong Hai đứa trẻ

1. Mở bài

- Giới thiệu chung về tác giả, tác phẩm:

  • Thạch Lam là một nhà văn lớn của khuynh hướng văn học lãng mạn Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945, khai thác thế giới nội tâm của nhân vật với những cảm xúc mong manh, mơ hồ.
  • Truyện ngắn Hai đứa trẻ dù không có cốt truyện đặc biệt nhưng thông qua tiếng nói nội tâm của nhân vật Liên, từng mảnh đời bất hạnh hiện lên và mang đến cho tác phẩm thật nhiều cảm xúc.

- Khái quát chung về cảnh đợi tàu: Cảnh đợi tàu của hai chị em Liên là kết tinh của những tư tưởng nghệ thuật sâu sắc và tiến bộ của Thạch Lam với ngòi bút nhân đạo, trữ tình.

2. Thân bài

* Luận điểm 1: Lý do hai chị em Liên cố thức đợi tàu

- Liên cùng em trai dù đã rất buồn ngủ nhưng vẫn cố thức để đợi tàu bởi:

  • Cô được mẹ dặn chờ tàu đến để bán hàng
  • Nhưng Liên không mong chờ ai đến nữa
  • Cô thức vì muốn được nhìn thấy chuyến tàu như một hoạt động cuối cùng của đêm khuya -> Thực chất để thay đổi cảm giác, thay đổi cái không khí ứ đọng hàng ngày.

=> Sự thức tỉnh cái tôi, khao khát, khắc khoải muốn nhìn thấy những gì khác với cuộc sống của chính mình.

* Luận điểm 2: Hai chị em trước khi tàu đến

  • Mi mắt An sắp sửa rơi xuống, vẫn cố dặn chị gọi dậy khi tàu đến
  • Chăm chú để ý từ ngọn lửa xanh biếc, tiếng còi vang lại, kéo dài ra theo ngọn gió xa xôi -> Niềm mong ngóng, chờ đợi, háo hức.
  • Tâm hồn Liên yên tĩnh hẳn, có những cảm giác mơ hồ không hiểu
  • Tiếng gọi em của Liên: cuống quýt, giục giã -> lo sợ nếu chậm một chút thôi sẽ không kịp, sẽ bỏ lỡ.
  • An “nhỏm dậy”, “lấy tay giụi mắt” cho tỉnh hẳn -> hành động nhanh, ngây thơ, đáng yêu nhưng cũng đáng thương.

=> Niềm háo hức, mong ngóng chuyến tàu đêm của hai chị em như mong ngóng một điều gì đó tươi sáng hơn cho cuộc sống vốn tẻ nhạt thường ngày.

* Luận điểm 3: Cảnh đoàn tàu đến

  • Khi đoàn tàu đến, Liên dắt em đứng dậy để nhìn đoàn xe vụt qua
  • Dù chỉ trong chốc lát, Liên cũng thấy “những toa hạng trên sang trọng lố nhố người, đồng và kền lấp lánh” -> Liên thấy một thế giới khác với cuộc sống thường ngày của chị.
  • Câu hỏi cảm thán của An: “Tàu hôm nay không đông, chị nhỉ?” -> Có thể ngày nào hai chị em cũng ngóng tàu.
  • Đứng lặng ngắm đoàn tàu đi qua, Liên không trả lời câu hỏi của em -> Trong tâm hồn Liên lúc này cơn xúc động vẫn chưa lắng xuống.
  • Liên mơ tưởng về Hà Nội, một Hà Nội sáng rực và xa xăm, một Hà Nội đẹp, giàu sang và sung sướng... Sự hồi tưởng ấy càng khiến Liên thêm tiếc nuối và ngán ngẩm cho cuộc sống hiện tại.
  • Tàu đến khiến hai chị em sống với quá khứ tươi đẹp và được sống trong một thế giới mới tốt hơn, sáng hơn, rực rỡ, vui tươi hơn cuộc sống thường ngày.

=> Tâm trạng xúc động, vui sướng, hạnh phúc, mơ mộng.

* Luận điểm 4: Hai chị em khi tàu đi

  • Phố huyện với từng ấy người “trong bóng tối mong đợi một cái gì tươi sáng cho sự sống”, trong đó có cả Liên và An
  • Hai chị em còn nhìn theo cái chấm nhỏ của chiếc đèn treo trên toa cuối cùng
  • Khi tàu đi, Liên và An trở về với tâm trạng buồn tẻ, chán ngán cuộc sống thường ngày, niềm vui của hai chị em chỉ lóe sáng rồi vụt tắt.
  • Tất cả chìm trong màn đêm với ngọn đèn tù mù chỉ chiếu sáng một vùng đất nhỏ đi vào giấc ngủ chập chờn của Liên.

=> Tâm trạng nuối tiếc, niềm suy tư thao thức về cuộc sống hằng ngày nơi phố huyện nghèo.

* Ý nghĩa của cảnh đợi tàu

  • Thương cảm với cảnh sống nghèo khó, vô danh, vô nghĩa: Ước mơ rất đỗi bình thường và nhỏ bé, chỉ là một đoàn tàu vụt qua trong đêm tối.
  • Thể hiện cái nhìn lạc quan về con người: Họ còn sự gắn bó, muốn thay đổi trong cuộc sống. Tất cả mọi người đều biết ước mơ, mong mỏi thay đổi nào đó, dù rất mơ hồ, rời rạc. Điều đó chứng tỏ, ngày dù tàn, cảnh cũng tàn nhưng lòng và đời của họ không tàn, nhất là với đứa trẻ như chị em Liên.

* Đặc sắc nghệ thuật

  • Lối viết không có cốt truyện
  • Bút pháp lãng mạn xen hiện thực
  • Nghệ thuật miêu tả nội tâm
  • Ngôn ngữ đơn giản, súc tính, giàu tính tạo hình.

3. Kết bài

  • Khái quát ý nghĩa của cảnh đợi tàu.
  • Nêu cảm nhận của bản thân.

Phân tích cảnh đợi tàu trong Hai đứa trẻ - Mẫu 1

Có một nhà văn đã quan niệm rằng: "Đối với tôi văn chương không phải là một cách đem đến cho người đọc sự thoát li hay sự quên; trái lại văn chương là một thứ khí giới thanh cao và đắc lực mà chúng ta có thể có, để vừa tố cáo và thay đổi một cái thế giới giả dối và tàn ác, vừa làm cho lòng người được thêm trong sạch và phong phú hơn", đó chính là Thạch Lam. Nhắc đến Thạch Lam, người ta thường biết đến ông với một phong cách viết truyện ngắn rất độc đáo, không theo lối mòn cốt truyện hay tình huống truyện, mà truyện của ông là truyện nhưng lại không có cốt truyện, tựa như một cuốn phim mà diễn viên tự biên tự diễn chẳng cần có kịch bản vậy. Mỗi tác phẩm, mỗi truyện ngắn của ông tựa như một bài thơ trữ tình đượm buồn, chất thơ vương vấn trong từng câu chữ, từng cái quan sát biến chuyển của dòng thời gian, sự vật. Ông thường đi sâu vào tìm hiểu thế giới nội tâm của nhân vật với những xúc cảm mơ hồ, mong manh, rất đỗi tinh tế. Và nét văn phong độc đáo như vậy ta thấy được rất rõ ràng trong tác phẩm Hai đứa trẻ, đặc biệt thông qua cảnh hai đứa trẻ ngồi đợi chuyến tàu đêm muộn, chúng ta lại cũng thấy được những thông điệp và ý nghĩa đẹp đẽ, đầy tính nhân văn mà Nguyễn Minh Châu muốn truyền tải cho độc giả.

Có thể nói rằng đột phá của chất thơ trong toàn bộ tác phẩm đó chính là cảnh hai chị em Liên và những người dân phố huyện ngồi đợi chuyến tàu khuya, đợi một cái gì đó nhộn nhịp nào nhiệt khác hẳn với cái màu u ám, trầm buồn của khu phố tỉnh lẻ này. Những người dân nơi đây họ chờ đợi một cái gì đó tươi sáng hơn, chúng ta mới vỡ lẽ ra rằng tại sao "Chị Tí chẳng kiếm được bao nhiêu nhưng chiều nào chị cũng dọn hàng từ chập tối cho đến đêm", bác Siêu chẳng thấy bán được cho ai nhưng chiều nào đêm nào bác cũng gánh hàng phở ra đây, vợ chồng bác xẩm cũng hiếm người nghe hát, nhưng chiều nào cũng một manh chiếu rách ngồi đây đợi, để rồi ngủ gục trên manh chiếu tự bao giờ. Hóa ra không phải chỉ để mưu sinh mà họ còn cùng nhau đợi được một chuyến tàu đêm, "chừng ấy con người trong bóng tối mong đợi một cái gì đó tươi sáng cho sự sống nghèo khổ hàng ngày của họ".

Hình ảnh đoàn tàu xuất hiện với những sự đợi chờ mong mỏi của người dân nơi phố huyện, người ta mong đến nỗi chỉ một chút động thái báo hiệu của đoàn tàu cũng đã khiến họ vui mừng háo hức, đó là bác Siêu nghển cổ nhìn ra phía ga "Đèn ghi đã ra kia rồi", đó là ánh mắt chăm chú phóng ra đường ray của Liên thấy một "ngọn lửa xanh biếc, sát mặt đất như ma trơi", là âm thanh của tiếng còi xe lửa kéo dài trước khi vào ga. Đoàn tàu rầm rập kéo đến , tiếng bánh sắt rít mạnh vào đường ray, những toa tàu "sáng trưng", cửa kính "lấp lánh", cả tiếng người lố nhố,... Tàu đi vào đêm tối, chỉ để lại những "đốm than đỏ bay tung trên đường sắt", còn chỉ em Liên thì cứ nhìn mãi theo mấy cái chấm xanh xanh khuất dần và mất hút vào đêm tối. Hình ảnh chuyến tàu đêm đã bộc lộ rõ nét tâm trạng của người dân phố huyện. Sở dĩ nói như vậy bởi vì như nhà văn Thạch Lam đã nói "chuyến tàu như mang một chút thế giới khác đi qua", đối với người dân phố huyện thì chuyến tàu ấy có một ý nghĩa vô cùng lớn, nó đã mang lại một thứ ánh sáng khác hẳn cái ánh sáng tù mù của ánh đèn dầu, của loài đom đóm, của những buổi chiều sẩm tối dưới ánh hoàng hôn nơi phố huyện, đó là thứ ánh sáng tươi vui đến từ Hà Nội thủ đô, nơi phồn hoa nhộn nhịp. Dẫu họ cũng biết rằng ánh sáng ấy cũng chỉ đến một chút rồi lại đi mất hút, để lại sau lưng bóng tối bao trùm còn ám ảnh hơn trước đó, thế nhưng họ cam lòng đợi chờ mãi từ sẩm tối cho đến khuya đợi đến mắt díu lại buồn ngủ, nhưng họ vẫn khát khao, mong chờ. Bởi chuyến tàu nhộn nhịp mang hơi thở nhộn nhịp, tươi sáng ấy chính là một món quà của cuộc sống, giữa bộn bề cái khó khăn, đói khát mưu sinh. Cái ánh sáng rực rỡ, lấp lánh mà đoàn tàu mang lại chính là tượng trưng cho niềm khát khao, nỗi hy vọng của những con người nơi đây. So sánh với nhiều tác phẩm văn học khác, ánh sáng cũng thường được nhiều tác giả tượng trưng cho niềm khát khao, hy vọng của con người trước những tối tăm, bất lực của cuộc đời. Đơn cử như trong Chí Phèo của Nam Cao, cảnh Chí Phèo tỉnh dậy nhìn thấy ánh sáng lờ mờ lọt vào căn lều ẩm thấp của mình, khao khát được trở lại làm người lương thiện, được hạnh phúc của hắn đã trỗi dậy, hay trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ, ánh sáng trên bếp lửa mà Mị vẫn thường hơ tay, hơ lưng cũng phản ánh những khao khát mãnh liệt trong tâm hồn Mị, và trong Vợ nhặt, nhân vật Tràng mua hai hào dầu về thắp lửa cho căn nhà sáng sủa lên trong đêm tân hôn cũng phản ánh cái khao khát, hy vọng về một cuộc sống tốt đẹp hơn của anh.

Tâm trạng của hai đứa trẻ cũng có nhiều những xao động, An còn nhỏ, cậu đợi tàu trong cái tâm trạng nôn nao háo hức, chuyến tàu đối với An đó chính là một món quà, thú vị, khơi gợi trong tâm hồn em những tưởng tượng phong phú. Chuyến tàu ấy đã thay thế, khỏa lấp đi những thiếu sót tuổi thơ em, bởi vì gia cảnh nghèo khó em không được có những món đồ chơi đẹp đẽ, không có những chuyến đến khu vui chơi, mà chỉ được quanh quẩn bên gian hàng nhỏ, nơi phố huyện mịt mù tăm tối. Còn với Liên đoàn tàu lại mang nhiều ý nghĩa khác, mang đến cho cô bé mới lớn những xúc cảm tinh tế, "tâm hồn Liên Liên yên tĩnh hẳn, có những cảm xúc mơ hồ khó hiểu". Còn tàu gợi nhắc Liên về một thời quá vãng, đó là một cuộc sống nơi phố thị Hà Nội, đó là khi nhà Liên còn khá giả, Liên được thưởng thức những món quà vặt ngon miệng, được đi chơi đây đó, đâu đâu cũng là những ánh đèn sáng rực và lấp lánh. Nhưng ngày đó đã quá xa và có lẽ cuộc đời Liên mãi phải chôn chân ở cái phố huyện nghèo nàn và tối tăm này, chuyến tàu càng giúp Liên nhận thức rõ hơn về cuộc sống bế tắc, nghèo khổ hiện tại của những con người nơi đây. Thông điệp chính mà Thạch Lam muốn nhắn nhủ ở đây rằng dẫu cuộc sống có khốn khó, vất vả và bế tắc đến chừng nào thì con người ta vẫn không bao giờ được thôi khát vọng, thôi mơ ước về một cuộc sống tốt đẹp và tươi sáng hơn. Những hy vọng, khát khao ấy vẫn luôn tiềm ẩn trong mỗi con người dù già hay trẻ và chúng được nuôi dưỡng bằng một tâm hồn lạc quan, yêu đời, bằng tình thương cảm, gắn kết những con người với nhau. Dẫu có là cảnh tượng ngày tàn, chợ tàn hay những kiếp người tàn, thì chí ít vẫn có những tâm hồn non trẻ, những tâm hồn kiên cường như chị em Liên và những con người như bác Siêu, chị Tí, vợ chồng bác xẩm không tàn. Họ vẫn sống, vẫn lao động và cố gắng từng ngày, vẫn hằng hy vọng và mơ ước thoát khỏi cái cuộc đời tăm tối, u buồn nơi phố huyện mà tượng trưng chính là chuyến tàu Hà Nội về đầy ánh sáng rực rỡ, tươi vui.

Với văn phong viết truyện chậm rãi, lãng mạn, là chuyện nhưng không có cốt truyện, Thạch Lam đã mang đến một tác phẩm rất đỗi tinh tế, với giọng điệu đầy tính nhạc và chất thơ êm đềm. Khắc họa rõ nét khung cảnh làng quê Việt Nam trước cách mạng, chất chứa những nỗi u buồn, khó nhọc, thông qua đó nhà văn bày tỏ niềm cảm thông sâu sắc đối với cuộc sống của những con người quẩn quanh bế tắc. Đồng thời trân trọng niềm hy vọng dẫu rất mong manh của họ về một cuộc sống tốt đẹp hơn, tươi sáng hơn thông qua cảnh đợi tàu của chị em Liên và nhắn nhủ những thông điệp về tinh thần sống lạc quan của con người. Đó chính là bút pháp nhân đạo của nhà văn Thạch Lam trong những tác phẩm của mình.

Phân tích cảnh đợi tàu trong Hai đứa trẻ - Mẫu 2

Nhà văn Thạch Lam là một trong những nhà văn lớn trên văn đàn Văn học Việt Nam. Ông tham gia nhóm Tự lực văn đoàn. Với tuổi thơ có cuộc sống cơ cực và sinh ra trong thời loạn lạc nên phong cách sáng tác của ông có khuynh hướng lãng mạn, đặc biệt là trước Cách mạng tháng 8. Tác giả Thạch Lam luôn xoay quanh thế giới nội tâm của các nhân vật với những xúc cảm mơ hồ, mong manh và sầu bi.

Tác phẩm dù không có cốt truyện gay cấn, kịch tính nhưng thông qua tâm trạng của nhân vật Liên, cuộc sống nghèo khổ của những kiếp người hẩm hiu nơi phố huyện… đã đủ để mang đến cho người đọc nhiều xúc cảm khó quên và ấn tượng.

Trong tác phẩm, có nhiều phân cảnh ấn tượng, nhưng cảnh để lại dấu ấn trong lòng độc giả hơn cả là cảnh tượng hai chị em Liên đợi tàu trong đêm khuya. Đó là hình ảnh kết tinh của những biện pháp nghệ thuật và tư tưởng tiến bộ của nhà văn Thạch Lam với bút pháp đầy trữ tình và nhân văn sâu sắc.

Theo như Thạch Lam viết thì: “An và Liên đã buồn ngủ ríu cả mắt. Tuy vậy hai chị em vẫn cố gượng để thức khuya chút nữa, trước khi vào hàng đóng cửa đi ngủ. Mẹ vẫn dặn phải thức đến khi tàu xuống – đường sắt đi ngang qua ngay trước mặt phố – để bán hàng, may ra còn có một vài người mua. Nhưng cũng như mọi đêm, Liên không trông mong còn ai đến mua nữa. Với lại đêm họ chỉ mua bao diêm, hai gói thuốc là cùng. Liên và em cố thức là vì cớ khác, vì muốn được nhìn chuyến tàu. Chín giờ có chuyến tàu ở Hà Nội đi qua huyện. Đó là sự hoạt động cuối cùng của đêm khuya”.

Mặc dù đã buồn ngủ ríu cả mắt nhưng hai chị em Liên vẫn cố gắng gượng thức để đợi tàu đến. Một là vì hai chị em được mẹ dặn dò đợi tàu đến để bán hàng. Nhưng cũng như bao ngày khác, Liên không mong chờ có nhiều khách đến. Tuy vậy, hai chị em vẫn đợi tàu vì đó là chuyến tàu ở Hà Nội đi qua, là sự hoạt động cuối cùng của đêm khuya. Sở dĩ hai chị em đợi xem tàu không chỉ để xem nó chạy như thế nào mà thực chất là để thay đổi tâm trạng buồn bã chán chường ứ đọng trong ngày, cô muốn thay đổi cảm giác u buồn tăm tối nơi phố huyện nghèo nàn. Qua đây, độc giả có thể thấy, ở trong hai chị em Liên có sự khao khát, mong muốn khắc khoải muốn thay đổi cuộc sống và nhìn thấy những gì khác lạ với cuộc sống hiện tại.

Phân tích cảnh đợi tàu của 2 chị em Liên, độc giả thấy, trước khi tàu đến, tâm trạng của hai chị em Liên vô cùng háo hức và xáo động. Mặc dù mi mắt An như sắp sửa rơi xuống nhưng cậu vẫn cố gượng dặn chị gọi dậy khi tàu đến. Bởi An không muốn bỏ lỡ. Trong khi đó, “Liên khẽ quạt cho An, vuốt lại mái tóc tơ. Đầu em bé nặng dần trên người Liên; chị ngồi yên không động đậy. Qua khe lá của cành bàng ngàn sao vẫn lấp lánh; một con đom đóm bám vào dưới mặt lá, vùng sáng nhỏ xanh nhấp nháy rồi hoa bàng rụng xuống vai Liên khe khẽ, thỉnh thoảng từng loạt một. Tâm hồn Liên yên tĩnh hẳn, có những cảm giác mơ hồ không hiểu”. Liên mong ngóng, háo hức chờ đợi. Tâm hồn cô bỗng có chút mơ hồ gì đó mà chính cô cũng không hiểu. Trong lúc đợi tàu, Liên cứ chăm chú nhìn về hướng đường ray để rồi chăm chú nhìn ngọn lửa xanh biếc, vểnh tai nghe tiếng còi vang lên vọng lại từ xa xôi. Khi dấu hiệu tàu đến xuất hiện, Liên vội vàng cuống quýt gọi An dậy. Cả hai lo sợ nếu không nhanh sẽ bị bỏ lỡ, không kịp nhìn thấy. Nhận được tín hiệu từ chị, An vội “nhỏm dậy”, “lấy tay giụi mắt” để cho tỉnh hẳn. “An nhổm dậy, lấy tay dụi mắt cho tỉnh hẳn. Hai chị em nghe thấy tiếng dồn dập, tiếng xe rít mạnh vào ghi. Một làn khói bừng sáng trắng lên đằng xa, tiếp đến tiếng hành khách ồn ào khe khẽ”.

Một hành động thể hiện sự nhanh chóng, rất ngây thơ, đáng yêu và cũng đáng thương của một đứa trẻ đang ngủ ngon phải tỉnh giấc. Niềm háo hức mong ngóng đợi tàu của hai chị em như những đứa trẻ ngóng đợi mẹ đi chợ và mang về những món quà kỳ diệu. Và sâu xa hơn, đó là niềm mong đợi về một điều gì đó tươi sáng hơn cho cuộc sống tù túng, tả nhạt thường ngày nơi phố huyện nghèo này.

“Hai chị em chờ không lâu. Tiếng còi đã rít lên, và tàu rầm rộ đi tới. Liên dắt em đứng dậy để nhìn đoàn xe vụt qua, các toa đèn sáng trưng, chiếu ánh cả xuống đường. Liên chỉ thoáng trông thấy những toa hạng trên sang trọng lố nhố những người, đồng và kền lấp lánh, và các cửa kính sáng”.

Lúc đoàn tàu đến, hai chị em Liên đứng dậy để nhìn cho rõ hình ảnh đoàn tàu đang lao vụt qua. Đó là một khoảnh khắc khá ngắn ngủi, chỉ trong chốc lát thoáng qua, nhưng Liên đã kịp quan sát và nhìn thấy “những toa hạng trên sang trọng lố nhố người, đồng và kền lấp lánh và các cửa kính sáng” . Đó là những điều khác biệt so với bóng tối, cuộc sống nhàm chán thường ngày nơi phố huyện của chị em Liên. Qua câu hỏi bâng quơ cảm thán của An “Tàu hôm nay không đông, chị nhỉ?” Độc giả có thể cảm nhận được rằng việc đợi tàu này là ngày nào hai chị em cũng thực hiện. Dường như những chuyến tàu đêm đã quá quen thuộc với hai chị em những mỗi khi nó đi qua vẫn mang tới cảm giác mới mẻ và kỳ lạ đến thú vị.

“Rồi chiếc tàu đi vào đêm tối, để lại những đốm than đỏ bay tung trên đường sắt. Hai chị em còn nhìn theo cái chấm đỏ của chiếc đèn xanh trên toa sau cùng, xa xa mãi rồi khuất sau rặng tre.

– Tàu hôm nay không đông nhỉ, chị nhỉ.

Liên cầm tay em không đáp. Chuyến tàu đêm nay không đông như mọi khi, thưa vắng người và hình khư kém sáng hơn. Nhưng họ ở Hà Nội về! Liên lặng theo mơ tưởng. Hà Nội xa xăm, Hà Nội sáng rực vui vẻ và huyên náo. Con tàu như đã đem một chút thế giới khác đi qua. Một thế giới khác hẳn đối với Liên, khác hẳn cái vầng sáng ngọn đèn của chị Tí và ánh lửa của bác Siêu. Đêm tối vẫn bao bọc chung quanh, đêm của đất quê, và ngoài kia, đồng ruộng mênh mang và yên lặng”.

Đoàn tàu đến và đi nhanh như chớp mắt. Khi An hỏi chị, nhưng Liên đứng lặng ngắm đoàn tàu mà không đáp. Bởi lúc này trong tâm hồn cô có một sự xúc động khó tả. Liên nhớ về những ngày tháng xưa kia, nơi Hà Nội xa xăm và huyên náo, vui vẻ, với cuộc sống đủ đầy, giàu sang. Càng hồi tưởng lại cuộc sống xưa kia, Liên càng cảm thấy nuối tiếc và ngán ngẩm về cuộc sống hiện tại.

Con tàu đi, mang theo cả thế giới khác của chị em Liên lẫn của người dân nơi phố huyện đi theo. Để rồi khi những chấm nhỏ của chiếc đèn treo trên toa cuối cùng của chiếc tàu khuất sau rặng tre, thì bóng tối lại bao trùm lên phố huyện nghèo.

Khi đoàn tàu biến mất, hai chị em Liên lại trở lại với cảm giác chán chường, buồn bẻ của cuộc sống hàng ngày. Dường như niềm vui của hai chị em vừa lóe lên đã vụt tắt theo đoàn tàu. Tất cả thứ ánh sáng của đoàn tàu đã tan biến, giờ đây chỉ còn lại màn đêm với ánh đèn tù mù, chiếu sáng một vùng đất nhỏ bé xíu và chập chờn đi vào giấc ngủ của hai chị em Liên. Qua đây, người đọc cảm nhận được tâm trạng tiếc nuối, và khát khao về cuộc sống thay đổi tươi mới của chị em Liên.

Qua đây người đọc cảm nhận được niềm thương cảm của tác giả Thạch Lam dành cho những phận người nghèo khổ trong xã hội cũ. Họ không có những mong ước cao sang, xa vời, mà chỉ đơn giản và rất nhỏ bé, đó là được nhìn thấy đoàn tàu vụt qua trong đêm khuya.

Nhưng đồng thời chúng ta cũng nhìn thấy niềm lạc quan, tin tưởng về con người của tác giả Thạch Lam. Đó là dù cuộc sống tù túng, hẩm hiu nhưng họ vẫn khát khao có sự thay đổi. Họ gắn bó với nhau, rất cảm thông và yêu thương nhau nhưng tất cả đều mong mỏi và muốn thay đổi cuộc sống mặc dù nó rất rời rạc và mơ hồ. Điều này cũng chứng tỏ, cảnh chiều tàn, cảnh đoàn tàu vụt qua của ngày tàn nhưng cuộc đời và suy nghĩ của chị em Liên không tàn.

Qua đây độc giả thấy được tài năng sử dụng nghệ thuật đặc sắc của tác giả. Đó là lối viết không cần cốt truyện phức tạp, nhưng vẫn đủ để khiến người đọc cảm nhận được toàn bộ bức tranh nội dung tác phẩm. Bút pháp hiện thực xen lẫn lãng mạn đã làm nổi bật nội tâm của các nhân vật. Ngôn ngữ, súc tích, ngắn gọn đơn giản nhưng giàu tính tạo hình, gợi cảm xúc, khiến đọc giả cảm nhận rõ rệt tâm trạng của nhân vật và toàn bộ cuộc sống của những phận nghèo nơi phố huyện tăm tối.

Mẫu phân tích cảnh đợi tàu trong bài Hai đứa trẻ của Thạch Lam - Mẫu 3

Hai đứa trẻ là một trong những tác phẩm xuất sắc và tiêu biểu nhất của Thạch Lam. Đó là một truyện ngắn trữ tình. Truyện không có truyện. Nhân vật là nhân vật trữ tình. Tất cả nội dung của chuyện đều xoay quanh tâm trạng của chị em một cô gái tên Liên, nhân vật chủ yếu của tác phẩm. Nhân vật của Thạch Lam nói chung là thế; không có suy nghĩ sâu sắc, thường chỉ thể hiện những cảm giác, những vui buồn nào đấy. Họ thường ngồi yên lặng lắng nghe tiếng nói thầm kín của lòng mình, ít phân tích lí giải đề xuất những khái quát triết lí như thường thấy ở nhân vật Nam Cao.

Nhưng đằng sau thế giới nhân vật với những tâm trạng như thế, người ta thấy thấp thoáng nhân vật tác giả, người kể chuyện. Nhân vật này thì giàu suy tư, thường phát biểu bằng một giọng nói dịu dàng nhỏ nhẹ những tư tưởng có ý nghĩa nhân đạo sâu sắc. Tác phẩm tự nó chia làm ba đoạn: Đoạn một: Tâm trạng Liên trước cảnh chiều muộn nơi phố huyện.

Đoạn hai: Tâm trạng Liên trước cảnh đêm tối nơi phố huyện. Đoạn ba: Tâm trạng chị em Liên khao khát được thấy chuyến tàu đi qua phố huyện. Chính ở đoạn ba này, chủ đề của tác phẩm đã được phát biểu một cách sâu sắc và thấm thía. Chủ đề đấy chính là lời giải đáp cho câu hỏi: “Tại sao chị em Liên đêm nào cũng cố thức để được nhìn chuyến tàu qua?”.

Nhưng tác phẩm văn học là một chỉnh thể. Vậy muốn giải đáp câu hỏi trên, nhất thiết phải gắn đoạn ba với đoạn một, đoạn hai của thiên truyện. Ba đoạn gắn bó với nhau theo logic tâm trạng của nhân vật Liên để cuối cùng tô đậm tư tưởng của truyện ở đoạn kết thúc. Đoạn một thể hiện tâm trạng buồn của Liên trước quan cảnh tàn lụi của cảnh thiên nhiên và những cảnh đời nơi phố huyện lúc chiều muộn. Tâm trạng này tác giả đã ghi rõ trong đoạn văn: “Liên ngồi yên lặng bên mấy quả thuốc sơn đen; đôi mắt chị bóng tối ngập đầy dần và cái buồn của buổi chiều quê thấm thía vào tâm hồn ngây thơ của chị; Liên không hiểu sao, nhưng chị thấy lòng buồn man mác trước cái giờ khắc của ngày tàn”.

Ngày tàn trước hết báo hiệu bằng tiếng trống thu không như gọi buổi chiều về. Phương tây tuy đỏ rực như lửa cháy nhưng cũng chỉ là ánh hồng của “hòn than sắp tàn”. Bóng tối lấn dần, lấn dần… Nhìn xuống mặt đất là cảnh chợ tàn, không có gì vui bằng lúc chợ đông, nhưng cũng không có gì buồn hơn cảnh chợ tàn.

Đâu tiếng làng xa vắng chợ chiều. Câu thơ trong bài Tràng giang của Huy Cận thật buồn. Buồn vì người ta về hết cả, tiếng ồn náo nhiệt cũng tắt. Sự sống như tàn lụi Cái nghèo phô bày không che đậy ở những rác rưởi bỏ lại, ò mấy đứa trẻ nhà nghèo lom khom nhặt nhạnh những cái vặt vãnh còn có thể dùng được cửa những người bán hàng để lại…

Những con người quen thuộc với chị em Liên nơi phố huyện cũng vậy, đều là những cuộc đời tàn lụi: cái hàng nước lèo tèo của chị Tí thì ế khách (“Ôi chao, sớm với muộn mà có ăn thua gì”), cửa hàng của chị em Liên cũng vậy (“Hôm nay ngày phiên mà bán cũng chẳng ăn thua gì”). Hình ảnh cụ Thi điên lảo đảo bước đi càng tô đậm một cảnh ngộ bế tắc: “Cụ đi lần vào bóng tối, tiếng cười khanh khách nhỏ dần về phía làng”. Đoạn hai thể hiện tâm trạng buồn và chán nản của Liên trước những cuộc đời tối tăm quẩn quanh đơn điệu của những cư dân nơi phố huyện.

Tất cả đều diễn ra như đúng đêm trước, như hàng trăm đêm trước. Đường phố và các ngõ chứa đầy bóng tối. Các nhà đã đóng cửa im ỉm, trừ một vài cửa hàng còn thức, chi hé một khe ánh sáng. Sau cửa hàng nước chị Tí là gánh hàng bác phở Siêu mà chị em Liên đã biết chắc chắn ngay khi còn ở xa như một chấm lừa nhỏ và vàng “lơ lửng đi trong đêm tối, mất đi rồi lại hiện rõ. Rồi đến gia đình bác Xẩm với cái thau sắt trắng chỏng trơ và thằng con bò ra đất nghịch nhặt những rác bẩn vùi trong cát. Đúng là những kiếp người không bao giờ biết đến hạnh phúc. Hiện tại thì cực khổ, tương lai thì mù mịt. Sự tồn tại của họ dường như chỉ là để chờ đợi vu vơ một cái gì may mắn không bao giờ xảy đến: “Chừng ấy người trong bóng tối mong đợi một cái gì tươi sáng cho sự sống nghèo khổ hàng ngày.

Được tô đậm nhất ở đoạn này là hình ảnh những kiếp sống tối tăm. Điều đáng chú ý ở đây là cái tối tăm lại được diễn tả bằng ánh sáng, thứ ánh sáng leo lét của ngọn đèn con nơi chõng hàng nước của chị Tí, đối chọi một cách yếu ớt đến thảm hại trước “vũ trụ thăm thẳm bao la” trùm lên cái phố huyện nghèo; không phải ngẫu nhiên mà thiên truyện ngắn vẻn vẹn chỉ có mấy trang mà hình ảnh ngọn đèn hàng nước chị Tý được nhắc đi nhắc lại tới bảy lần. Nó trở thành một biểu tượng về những kiếp sống mù tối, lắt lay của những cư dân nghèo khổ tường chừng bị chôn vùi đến cùng đời mạt kiếp trong bóng tối của phố huyện tiêu điều bị cuộc sống bỏ quên này.

Hai đoạn trên chuẩn bị cho đoạn ba. Buồn chán trước cảnh đời phố huyện, chị em Liên cuối cùng cũng tìm ra được một lối thoát: trông đợi để thấy được một chuyến tàu đi qua phố huyện. Một lối thoát không phải trong thực tế mà trong tưởng tượng. Bởi vì con tàu đi qua đem theo nó một thế giới khác hẳn với cái thế giới của cái phố huyện: “Một thế giới sáng rực, huyên náo, vui vẻ và sang trọng. Đó là thế giới họ hằng mơ tường” Bỗng chốc họ sống với thế giới ấy nghĩa là được thoát ra khỏi cuộc sống tối tăm, vắng lặng xơ xác, nhàm chán và bế tắc của cái phố huyện nghèo. Nhưng cuộc thoát li, dù chỉ bằng tưởng tượng cũng chỉ diễn ra trong chốc lát. Đêm tối và sự im lặng mênh mông lại bao bọc lấy tất cả. Nỗi buồn chán lại trở về cùng với ngọn đèn con của chị Tí leo lét giữa đêm đen. “Liên đến bên em nằm xuống. Chị gối đầu lên tay nhắm mắt lại (…) Liên thấy mình sống giữa bao nhiêu sự xa xôi không biết như chiếc đèn con của chị Tí chỉ chiếu sáng một vùng đất nhỏ”

Qua diễn biến tâm trạng của Liên, tác giả muốn nói gì với người đọc? Lời phát biểu của Thạch Lam, như đã nói, bao giờ cùng thầm kín, dịu dàng nhưng cứ thấm thía mãi trong lòng người mà ám ảnh mãi tâm trí người đọc: ấy là tiếng nói đầy xót thương với những kiếp người nhỏ bé, cơ cực, sống quẩn quanh bế tắc, không hạnh phúc, không tương lai, những con người như bị chôn vùi trong kiếp sống vô danh, vô nghĩa trong xã hội cũ. Trong xã hội ý có biết bao người đã phải sống như thế: không bao giờ biết ánh sáng và hạnh phúc. Đến trong giấc mơ cũng không biết ước mơ gì hơn một chuyến tàu đêm vụt đi qua một phố huyện tiêu điều xơ xác của cuộc đời mình.

Đây là một khía cạnh mới của chủ nghĩa nhân đạo trong văn học Việt Nam từ khoảng 1930 - 1945, khi xuất hiện những nhà văn thức tỉnh về ý thức cá nhân, về sự tồn tại có ý nghĩa của mỗi cá nhân trên đời. Họ hết sức nhạy cảm đối với thân phận những con người, không biết sống là vui, những kiếp sống tù mù, dật dờ trong bóng tối.

Cảnh đợi tàu trong truyện Hai đứa trẻ - Mẫu 4

“Mỗi truyện của Thạch Lam như một bài thơ trữ tình, giọng điệu điềm đạm nhưng chứa đựng biết bao tình cảm mến yêu, chân thành và sự nhạy cảm của tác giả trước những biến thái của cảnh vật và lòng người”. Quả thực đúng như vậy, những trang văn của Thạch Lam không đi vào những biến cố mà đi sâu vào chiều sâu tâm trạng của con người. Cảnh chờ tàu của hai chị em Liên và An đã được tác giả nắm bắt những chuyển biến tế vi nhất trong tâm trạng của hai nhân vật.

Liên và An vốn là những đứa trẻ đã từng sống ở thị thành, nhưng gia đình sa sút nên phải chuyển về phố huyện nghèo. Liên và An tuy còn nhỏ tuổi nhưng cũng tham gia vào việc nuôi sống gia đình bằng cách trông một cửa hàng nhỏ ở chợ. Quanh Liên cũng là biết bao kiếp sống nhỏ bé, mòn mỏi như chị Tí cùng đứa con vất vả mưu sinh, chật vật để sống qua ngày, gia đình bác xẩm góp vào bằng tiếng đàn bần bật trong yên lặng,… Cuộc sống nhàm chán, tẻ nhạt, quẩn quanh nhưng những con người nơi đây vẫn luôn hướng về một ngày tươi sáng: “Chừng ấy người trong bóng tối mong đợi một cái gì tươi sáng cho sự sống nghèo khổ hằng ngày của họ”.

Đêm nào cũng vậy, dù buồn ngủ nhưng cả Liên và An đều cố thức để chờ hoạt động cuối cùng của đêm, đó chính là đợi đoàn tàu khuya từ Hà Nội đi ngang qua. Vì sao những đứa trẻ ngây thơ ấy lại phải cố gắng đợi đoàn tàu đi qua mới có thể ngủ? Có phải chúng nghe lời mẹ dặn? Có phải cố nán lại để bán thêm phong kẹo, cái bánh từ những người khách qua đường. Nhưng không phải “Liên và em cố thức là vì cớ khác, vì muốn được nhìn chuyến tàu đó là sự hoạt động cuối cùng của đêm khuya”. Trong sự chờ đợi ấy chứa đựng cả những khao khát, ước mong cháy bỏng của những trái tim trẻ thơ non nớt. Bởi vậy, An trước khi đi ngủ đã dặn chị: “tàu đến chị đánh thức em dậy nhé” khao khát của chúng là vô thức nhưng cũng thật mãnh liệt. Chuyến tàu đi qua, mang đến một thế giới khác, thế giới của âm thanh và ánh sáng rực rỡ.

Trong thời gian đợi tàu xuất hiện, chị Liên thả tâm hồn mình vào vũ trụ để cảm nhận hết thảy vẻ đẹp của thiên nhiên khi đêm về. Qua những kẽ lá bàng, “ngàn sao vẫn lấp lánh” trên nền trời, những nụ hoa bàng nhỏ khẽ rơi trên vai chị. Tâm hồn Liên thả trôi theo những cảm xúc bâng khuâng mà chính chị cũng cảm thấy mơ hồ không hiểu hết.

Tiếng trống cầm canh ở huyện đánh vang cùng với lời thông báo của bác Siêu: “Đèn ghi đã ra kia rồi” xua tan sự tĩnh mịch của màn đêm, để chuẩn bị cho sự hoạt động cuối cùng của đêm - con tàu từ Hà Nội dần dần xuất hiện. Ban đầu là ngọn lửa xanh biếc như ma trơi, rồi tiếp đến là làn khói trắng bừng lên từ xa. Liên gọi em dậy và cả hai chị em quan sát kĩ từng chuyển động của chiếc tàu. Tiếng Liên gọi An: “Dậy đi An. Tàu đến rồi” câu nói không đơn thuần chỉ là để gọi An dậy mà trong đó còn kèm cả sự vui thích, nó như một tiếng reo vui, hối thúc em dậy để cùng ngắm nhìn khoảnh khắc đoàn tàu vụt qua.

Khoảnh khắc tàu đến, lòng hai chị em vui sướng, hân hoan đến lạ kì, dù chỉ là thoáng qua nhưng cũng đủ để hai tâm hồn tinh tế ấy nắm bắt trọn vẹn sự vật, sự việc đang diễn ra trên tàu: “các toa đèn sáng trưng, chiếu sáng cả xuống đường. Liên chỉ thoáng trông thấy những toa hạng trên sang trọng lố nhố những người, đồng và kền vàng lấp lánh, và các cửa kính sáng”. Con tàu trong khoảnh khắc đã chỉ còn lại chiếc chấm đỏ nhỏ, rồi khuất sau rặng tre. Bé An hồn nhiên nhưng cũng đã nhận ngay ra dường như tàu hôm nay không đông như mọi khi. Còn Liên thì đã nhận thấy sự thưa thớt cũng như kém sáng hơn của đoàn tàu: “Chuyến tàu đêm nay không đông như mọi khi, thưa vắng người và hình như kém sáng hơn”. Dẫu đoàn tàu hôm nay có kém sáng hơn, có kém đông vui hơn mọi khi nhưng nó từ Hà Nội về, nó mang theo một thế giới khác hẳn đối với liên, đó là thế giới của ánh sáng, của niềm vui và của hạnh phúc. Lòng cô bé trào dâng niềm vui, niềm hạnh phúc khó tả khi được sống lại những ngày xưa khi cô được uống những cốc nước lạnh xanh xanh đỏ đỏ, và nhớ về một Hà Nội sáng rực, lấp lánh.

Đêm nào Liên và An cũng đợi tàu, dù có buồn ngủ díp mắt, chúng cũng phải chờ được đoàn tàu đi qua mới ngủ. Đây không phải là một hành động ngẫu nhiên, vô nghĩa mà nó dường như là một nhu cầu, một đòi hỏi thiết yếu đối với Liên và An. Đằng sau đó còn chứa đựng cả những mơ ước, khao khát về một cuộc sống mới đẹp đẽ và hạnh phúc hơn. Hình ảnh những đoàn tàu vụt xuất hiện rồi biến mất nhưng cũng đủ để chúng được trở lại, được sống với những kỉ niệm tuổi thơ êm ấm trước đây. Khao khát chờ đoàn tàu đi qua cũng ánh lên những khát vọng mãnh liệt của những đứa trẻ, đó là khát vọng đổi đời. Tại sao lại đặt khát vọng ấy vào hai nhân vật Liên và An mà không phải là chị Tí, bác Siêu, … bởi chúng là những đứa trẻ, chúng là mầm non, là tương lai của cuộc sống. Bởi vậy, khao khát đổi đời khi được tập trung thể hiện ở hai nhân vật sẽ trở nên ý nghĩa hơn, giàu sức gợi hơn. Đồng thời qua khung cảnh đợi tàu, Thạch Lam cũng thể hiện thái độ cảm thương đối với những số phận người nhỏ bé, bất hạnh phải sống mòn mỏi với cuộc đời chật vật, bế tắc; đồng thời ông cũng trân trọng, nâng niu những khao khát, những ước mơ đẹp đẽ của Liên và An nói riêng, của những người dân phố huyện nói chung. Không chỉ vậy, qua khung cảnh chờ chuyến tàu đêm, Thạch Lam còn dóng lên tiếng gọi tha thiết, lay động tâm hồn người đọc: hãy thay đổi cuộc sống, khiến nó trở nên đẹp đẽ hơn, biến nó thành môi trường sống lành mạnh để những đứa trẻ được sống cuộc hạnh phúc.

Với nghệ thuật miêu tả tâm lí và cảnh vật tài tình, cảnh đoàn tàu kết lại tác phẩm đã để lại dư âm, ấn tượng sâu lắng trong lòng người đọc. Đóng lại cuốn sách người đọc vẫn không khỏi thổn thức trước những số phận kiếp người mòn mỏi nơi phố huyện. Nhưng đồng thời cũng chân trọng, nâng niu những mơ ước tha thiết, mãnh liệt của họ về một cuộc sống khác, về sự đổi đời.

Tham khảo thêm:

Phân tích cảnh đợi tàu trong tác phẩm Hai đứa trẻ ngắn gọn nhất - Mẫu 5

Nhà văn Thạch Lam là một nhà văn thường sáng tác về truyện dài nhưng lại có thành công ở thể loại truyện ngắn. Ông có phong cách sáng tác riêng biệt, thường viết loại truyện không có cốt truyện mà chủ yếu là những dòng cảm xúc như một bài thơ trữ tình, nhưng chiều sâu của tác phẩm lại làm cho người đọc ngỡ ngàng, thường mang đến cho người đọc những tình cảm chân thành, tha thiết. Đến với truyện ngắn “Hai đứa trẻ”, đây cũng là một truyện ngắn tiêu biểu cho phong cách của Thạch Lam, nhẹ nhàng và sâu lắng. Đặc biệt, truyện ngắn đã đem đến cho người đọc một cảnh tượng xúc động ở cuối bài: cảnh chờ tàu, mang đến cho người đọc nhiều cảm xúc.

Hàng ngày, chị em Liên luôn có một thói quen là thức đợi tàu. Sự mong móng về khoảng thời gian tàu đi qua Phố huyện Cẩm Giàng của hai chị em được tác giả khắc họa rõ nét. Lý do chờ tàu của hai chị em Liên khác hẳn hoàn toàn so với những lý do của người dân phố huyện Cẩm Giàng. Nếu người dân chờ tàu để bán hàng, để hy vọng có thể kiếm thêm được một ít vật chất, thì chị em Liên lại muốn thỏa mãn nhu cầu về tinh thần. Khoảng thời gian tàu đến, là lúc hai chị em Liên như được sống với những kỉ niệm của quá khứ, những ngày còn ở Hà Nội với cuộc sống đủ đầy. Tàu đến là một thế giới đầy âm thanh và ánh sáng giúp một ngày tẻ nhạt của hai chị em như có thêm làn gió mới. Giữa cuộc sống nghèo nàn, vẫn có những đứa trẻ giữ được tâm hồn tinh tế, trong sáng và lãng mạn. Hai chị em đợi tàu để được ngắm nhìn đoàn tàu, sống lại những kí ức tuổi thơ vui vẻ, đầy đủ, khoảng thời gian hạnh phúc đã mất trong quá khứ, để được sống ở một thế giới huyên náo hơn, rực rỡ, nhiều ánh sáng, khác hẳn cuộc sống tối tăm, tù túng ở nơi phố huyện này.

Chuyến tàu là biểu tượng cho sự sống, có ánh sáng, âm thanh, nó biểu tượng cho một cuộc sống đông vui, náo nhiệt. Khi tàu đến, Liên nhớ về Hà Nội, gắn với những kí ức về gia đình, cuộc sống sung túc. Hình ảnh đoàn tàu mang đến cho Liên không gian ánh sáng và âm thanh của một Hà Nội huyên náo, rực rỡ và vui vẻ. Cuộc sống ấy nó khác hẳn với cuộc sống tẻ nhạt, tù túng và tăm tối, bế tắc nơi phố huyện Cẩm Giàng. Qua cảnh chờ tàu, nhà văn Thạch Lam đã thể hiện thái độ trân trọng, thương cảm đối với những kiếp người nhỏ bé. Đồng thời, tác giả muốn đánh thức những con người đang sống trong cuộc sống quẩn quanh, bế tắc những triết lý về cuộc sống. Đó là: hãy nỗ lực vươn lên, đừng để bản thân chìm trong đêm tối, đừng sống cuộc đời vô nghĩa lý. Hiện thực cuộc sống xung quanh có thể nghèo đói hay thiếu thốn, tù túng hay tăm tối, nhưng con người không bao giờ được phép ngừng tin tưởng và hy vọng vào một tương lai tốt đẹp hơn. Hình ảnh đoàn tàu mang đến nhiều ánh sáng cũng thể hiện niềm lạc quan, tin tưởng của tác giả về một tương lai tươi sáng hơn đối với con người. Qua cảnh chờ tàu, nhà văn thể hiện niềm tin vào khát vọng vươn lên của con người. Cho dù cuộc sống có bế tắc hay tăm tối thì họ vẫn luôn có một tinh thần hướng đến tương lai, không nguôi khát vọng đổi đời. Tác giả đã góp tiếng nói của mình để lên án xã hội đã không quan tâm đến số phận con người, để họ phải sống lay lắt từng ngày, trong nghèo đói và bóng tối. Qua đó lên tiếng đòi đổi thay cuộc sống, để con người có cuộc sống xứng đáng hơn.

Truyện ngắn “Hai đứa trẻ” với việc xây dựng một đoạn kết đầy ấn tượng với cảnh tượng chờ tàu đầy xúc động. Chỉ một chi tiết nhỏ nhưng nhà văn đã đem đến cho người đọc những ý nghĩa sâu sắc, thể hiện được chiều sâu tác phẩm và tình cảm nhân đạo từ nhà văn Thạch Lam.

Cảnh đợi tàu trong bài Hai đứa trẻ - Mẫu 6

“Trong nhóm Tự lực văn đoàn, Hoàng Đạo là người lý thuyết, Nhất Linh là người thực hành, Khái Hưng đả phá vào nếp sống cũ để tiến tới một đời sống mới… còn Thạch Lam một người yêu thương đồng bào, xót xa từ tâm can tỳ phế.” Văn phong Thạch Lam nhẹ nhàng mà sâu lắng nhưng con người trong trang văn của ông không thoát li khỏi hiện thực tàn khốc. Ông yêu thương đồng bào vô cùng, tuy nhân vật của ông dù sống cảnh nghèo khó nhưng họ vẫn không ngừng vươn tới, vẫn ánh lên tia hy vọng tươi mới. Truyện ngắn “Hai đứa trẻ” với cảnh đợi tàu của chị em Liên là minh chứng cho điều đó.

Liên và An trước đây từng sống ở Hà Nội - chốn thị thành huyên náo, nhộn nhịp có nhiều điều mới lạ. Ở đó hai chị em được mẹ đưa đi chơi Hồ Tây, được ăn những món ngon nhưng kể từ khi cha cô bị mất việc gia đình phải chuyển về quê_nơi phố huyện nghèo để sinh sống. Con người và cuộc sống nơi đây đối lập hoàn toàn với quá khứ xa xăm của Liên. Giờ đây hai chị em được mẹ giao cho nhiệm vụ trông nom cửa hàng tạp hóa nhỏ xíu bán những đồ vặt vãnh để phụ giúp cho thu nhập gia đình nhưng cũng chẳng đáng là bao. Cảnh vật nơi đây từ lúc chiều tà cho đến lúc về đêm đều u tối, tĩnh mịch, ảm đạm và buồn bã. Những con người xung quanh cô cũng là những kiếp người nghèo khổ, sống lay lắt qua ngày. Chính điều đó đã khiến cho tâm trạng Liên luôn mang một nỗi buồn man mác thấm sâu vào tâm hồn nhạy cảm của người con gái mới lớn.

Màn đêm buông xuống lúc con người ta mong muốn được nghỉ ngơi sau một ngày làm việc mệt mỏi. Liên, An và những con người nơi đây cũng vậy nhưng ngày nào họ cũng cố thức để chờ chuyến tàu từ Hà Nội chạy qua, dù cho hai chị em đã “buồn ngủ ríu cả mắt”, mí mắt An sắp sửa rơi xuống vẫn cố nhắc chị “Tàu đến chị đánh thức em dậy nhé”. Trong lúc An chợp mắt một chút Liên ngồi khẽ quạt cho em và thả hồn mình vào thiên nhiên. Cô quan sát từ trên cao“ngàn sao vẫn lấp lánh” xuống mặt đất “một con đom đóm bám vào dưới lá, vùng sáng nhỏ xanh nhấp nháy” rồi tinh tế hơn nữa là cô cảm nhận thấy hoa bàng rụng khẽ trên vai từng đợt một. Điều đó cho Liên cảm giác thật mơ hồ khó hiểu. Cô quả là một con người có cái nhìn tinh tế, nhạy cảm. Cô quan sát cả những con người nơi đây không gian vẫn vắng lặng, trống cầm canh đánh tung lên một tiếng khô khan càng làm cho khung cảnh trở nên yên ắng, tĩnh mịch. Mẹ con chị Tí, gia đình bác Siêu, bác xẩm… họ vẫn cố thức đợi tàu.

Tại sao lại như vậy? Họ đợi đoàn tàu chạy qua để làm gì? phải chăng giống như lời mẹ Liên dặn là “để bán hàng- may ra còn có một vài người mua”. Nhưng không Liên và An chẳng mong chờ gì vào điều đó bởi cô biết họ chỉ mua bao diêm hay gói thuốc là cùng. An và Liên thức là vì cớ khác, vì muốn được nhìn chuyến tàu đó là hoạt động cuối cùng của đêm khuya, “chừng ấy người trong bóng tối mong đợi một cái gì tươi sáng cho sự sống nghèo khổ hằng ngày của họ”.

Đó là chuyến tàu của khát vọng tương lai. Chuyến tàu đem đến cho hai chị em và những con người ở phố huyện nghèo những điều xa lạ của một thế giới khác hẳn với ánh đèn của chị Tí, ngọn lửa leo lét của bác Siêu và hột sáng thưa thớt của Liên. Ánh sáng trưng của các toa đèn, ánh sáng lấp lánh của đồng và kền, đốm than đỏ rực bay lung lung tất cả ánh sáng ấy xé toạc bầu trời tăm tối, mù mịt nơi phố xá nghèo nàn. Âm thanh của đoàn tàu với tiếng còi vọng lại từ xa, tiếng xe rít mạnh vào ghi, tiếng huyên náo của hành khách phá tan sự tĩnh lặng, u sầu của không gian. An, Liên và những kiếp người lay lắt cố thức là vì điều đó. Họ háo hức, khao khát nhìn thấy sự đổi thay mà đoàn tàu mang đến cho họ một ước mơ, khát vọng về một cuộc sống mới ở tương lai tốt đẹp hơn.

Mặt khác chuyến tàu còn đưa Liên trở về với kí ức xưa với “Hà Nội xa xăm, Hà Nội sáng rực vui vẻ và huyên náo”_nơi mà gia đình cô còn khá giả, hai chị em còn được vui chơi. Đoàn tàu như vệt sao băng vụt qua sáng lóa trên bầu trời tăm tối. Đoàn tàu vừa là kỉ niệm đẹp của tuổi thơ vừa là hy vọng ở ngày mai. Thạch Lam thật là tinh tế và sâu sắc khi phát hiện ra khao khát vừa đáng thương vừa đáng chân trọng ấy để cho nhân vật của ông dù sống trong nghèo khó nhưng không tuyệt vọng mà vẫn không ngừng hy vọng, ước mơ. Chi tiết ấy khiến cho ai đã đọc “Vợ nhặt” của Kim Lân mà nhớ tới lời của bà cụ Tứ động viên, tạo dựng niềm tin cho con dâu và con trai vào một tương lai hạnh phúc, ấm no. Bà chỉ nhẹ nhàng bảo “Vợ chồng chúng mày lo mà làm ăn, rồi trời thương. Ai giàu ba họ, ai khó ba đời bao giờ đâu”. Dù hiện thực nghiệt ngã, cái đói cái nghèo đeo bám hằng ngày lúc con người ta tưởng chừng như tuyệt vọng đứng bên bờ vực giữa sự sống và cái chết nhưng bà cụ già gần đất xa trời vẫn hy vọng, vẫn an ủi cho đôi vợ chồng trẻ một niềm tin. Giá trị nhân đạo ngưng đọng lại ở đó làm nên một tác phẩm có sức sống lâu bền với thời gian.

Thạch Lam có quan niệm dứt khoát về thiên chức của văn chương: "Đối với tôi, văn chương không phải một cách đem đến cho người đọc sự thoát ly hay sự quên, trái lại, văn chương là một thứ khí giới thanh cao và đắc lực mà chúng ta có, để vừa tố cáo và thay đổi một cái thế giới giả dối và tàn ác, vừa làm cho lòng người đọc thêm trong sạch và phong phú hơn". Cảnh đợi tàu của hai chị em Liên đã làm sáng ngời lên tuyên ngôn văn học của ông. Với văn phong lãng mạn, bút pháp trữ tình trong truyện ngắn và sự thành công của nghệ thuật miêu tả thế giới nội tâm nhân vật Thạch Lam nhà văn tài ba đã khắc họa cảnh chờ tàu của chị em Liên thật tỉ mỉ, sinh động để lại cho người đọc người nghe nhiều suy tư, chiêm nghiệm và bài học về niềm tin trong cuộc sống.

Mẫu phân tích cảnh đợi tàu trong Hai đứa trẻ  - Mẫu 7

Thạch Lam tên khai sinh là Nguyễn Tường Vinh sau đổi thành Nguyễn Tường Lân, sinh tại Hà Nội, trong một gia đình công chức gốc quan lại nhưng tuổi thơ gắn liền với quê ngoại ở phố huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương. Thạch Lam là một thành viên của nhóm Tự lực văn đoàn cho dòng văn học lãng mạn. Thạch Lam là người đôn hậu và tinh tế, điều này ảnh hưởng rất lớn đến các sáng tác của ông.

Thành công nhất của Thạch Lam là ở thể loại truyện ngắn. Truyện ngắn của Thạch Lam thường không có cốt truyện mà chủ yếu khai thác thế giới nội tâm con người với những cảm xúc mong manh, mơ hồ, những rung động nhẹ nhàng. Truyện ngắn của ông có giọng điệu như bài thơ trữ tình đượm buồn với văn phong sáng sủa và giản dị thể hiện niềm yêu mến của nhà văn với con người và cảnh vật. Các tác phẩm tiêu biểu: Tập truyện ngắn “Gió đầu mùa”, “Nắng trong vườn” và “Sợi tóc”; tiểu thuyết “Ngày mới”; tiểu luận và phê bình “Theo dòng”; tùy bút “Hà Nội băm sáu phố phường”.

Tác phẩm “Hai đứa trẻ” là một trong những truyện ngắn đặc sắc của Thạch Lam, in trong tập “Nắng trong vườn” (1938). Cũng như nhiều truyện ngắn khác của ông, “Hai đứa trẻ” có sự hòa quyện hai yếu tố hiện thực và trữ tình lãng mạn. Tác phẩm vừa có giá trị hiện thực cao vừa thấm đượm một giá trị nhân đạo sâu sắc. Qua truyện ngắn này, nhà văn thể hiện niềm thương cảm sâu sắc, thông cảm và xót thương vô hạn với những người nghèo khổ, khao khát một sự đổi thay đến với cuộc đời của họ. Đồng thời, tác phẩm cũng thể hiện một tài năng viết truyện ngắn bậc thầy của Thạch Lam. Đây là một truyện ngắn có cốt truyện đơn giản, một kiểu truyện ngắn trữ tình có nhiều chi tiết ngỡ như là vụn vặt, vô nghĩa nhưng thực ra đó chính là sự chọn lọc và sự sắp xếp một cách chặt chẽ để diễn tả tâm trạng nhân vật. Qua đó tác giả gửi gắm những tâm tình một cách kín đáo, nhẹ nhàng nhưng không kém phần thấm thía tư tưởng nhân đạo đáng quý.

Con người tự muôn đời nay luôn luôn sống trong khao khát và hi vọng những gì tươi sáng hơn dù trong bất cứ hoàn cảnh nào. Sống giữa phố huyện nghèo đầy bóng tối nhưng chị em Liên cũng như chừng ấy người nơi phố huyện vẫn luôn “mong đợi một cái gì tươi sáng hơn cho sự sống nghèo khổ hàng ngày của họ”. Đó chính là lí do khiến chị em Liên đêm đêm vẫn cố thức để được nhìn chuyến tàu đi qua bởi chuyến tàu chỉ vụt qua nhưng đã mang đến cho họ một thế giới khác hẳn vầng sáng ngọn đèn của chị Tí và ánh lửa trong gian hàng bác Siêu chứ không đơn thuần là vâng lời mẹ dặn để có thể bán thêm một ít hàng bởi “họ chỉ mua bao diêm hay gói thuốc là cùng”. Bởi lẽ đó mà Liên “dù buồn ngủ ríu cả mắt vẫn cố thức", còn An “đã nằm xuống, mi mắt sắp sửa rơi xuống vẫn không quên dặn chị “Tàu đến chị đánh thức em dậy nhé”.

Có lẽ bởi vậy mà chuyến tàu được nhà văn tập trung bút lực miêu tả một cách tỉ mỉ theo trình tự thời gian, qua tâm trạng của hai chị em Liên và An. Khi đêm đã về khuya, Liên vẫn thao thức không ngủ cho tới lúc “tiếng còi xe lửa ở đâu vang lại, trong đêm khuya kéo dài ra theo ngọn gió xa xôi”. Liên đã reo lên “Dậy đi, An. Tàu đến rồi”. Chuyến tàu chỉ dừng lại trong giây lát rồi đi vào đêm tối mênh mông giống như một ánh sao băng lấp lánh bất chợt bay qua nền trời rồi vụt tắt, mang theo bao ước mơ và hoài bão đi tới nơi nào chẳng rõ vậy nên hai chị em Liên “vẫn nhìn theo cái chấm nhỏ của chiếc đèn xanh treo trên toa sau cùng, xa xa mãi rồi khuất hẳn sau rặng tre”.

Chuyến tàu đêm nay không đông và kém sáng hơn mọi ngày nhưng Liên vẫn “lặng theo mơ tưởng. Hà Nội xa xăm, Hà Nội sáng rực vui vẻ và huyên náo. Con tàu như đã đem một thế giới khác đi qua. Một thế giới khác hẳn, đối với Liên, khác hẳn cái vầng sáng của ngọn đèn của chị Tí và ánh lửa của bác Siêu”. Đó là hình ảnh của Hà Nội trong kí ức tuổi thơ, Hà Nội của những kỉ niệm đẹp mà bấy lâu nay chị em Liên vẫn tha thiết hướng về dù chỉ trong giây lát “theo dòng mơ tưởng”. Phải chăng những kỉ niệm tươi sáng thường in đậm và khắc sâu trong tâm hồn tuổi thơ giống như một chiếc gối êm đềm ru ta vào giấc ngủ dịu êm dù thực tại có phũ phàng hay ảm đạm.

Xa Hà Nội đã lâu rồi nhưng chị em Liên vẫn “nhớ như in” những lần “đi chơi bờ hồ được uống những cốc nước lạnh xanh đỏ, ăn những thức ăn ngon lạ”. Họ nhớ như in “một vùng sáng rực và lấp lánh” dù hiện tại với hai em mùi phở của bác Siêu thật hấp dẫn nhưng “quá xa xỉ, nhiều tiền, hai chị em không bao giờ mua được”. Tuy vậy, nó cứ gợi nhớ mùi thơm của hồi nào… Hình ảnh chuyến tàu đêm là kí ức đẹp của tuổi thơ một thời nhớ lại trong tiếc nuối. Chuyến tàu càng sáng rực, vui vẻ thì Liên càng ý thức rõ hơn cảnh sống tăm tối, buồn tẻ và chìm lặng của phố huyện nghèo. Đoàn tàu đi rồi, đêm tối vẫn “bao bọc chung quanh”. Liên gối đầu lên tay và nhắm mắt lại để “hình ảnh thế giới xung quanh mình mờ mờ đi trong mắt chị”. Đó là lúc thấm thía sâu sắc nỗi buồn về một cuộc sống mòn mỏi, quẩn quanh không thể đổi thay, Liên “thấy mình sống giữa bao nhiêu sự xa xôi không biết như chiếc đèn con của chị Tí chỉ chiếu sáng một vùng đất nhỏ”. Đó là hình ảnh gây ấn tượng day dứt buồn cuối cùng đi vào giấc ngủ của cô bé Liên.

Nhưng đâu chỉ buồn và tiếc nuối, hai chị em Liên còn hồi hộp vui sướng khi tàu về như “mong đợi một cái gì tươi sáng hơn đến với cuộc sống nghèo khổ thường ngày của họ”. Cuộc sống hiện tại xung quanh Liên thật buồn tẻ, chuyến tàu từ Hà Nội về như đã đem lại một chút thế giới khác đi qua phố huyện nghèo. Bởi vậy, khi tàu về rồi “khuất dần sau rặng tre” mà Liên vẫn cứ “lặng theo mơ tưởng”. Dường như Liên đang ấp ủ trong lòng một khát khao thay đổi cuộc sống của hiện tại vẫn le lói một niềm hi vọng rồi một ngày nào đó được trở lại cuộc sống tươi sáng của ngày xưa như khi còn ở Hà Nội. Trong ý nghĩ hồn nhiên, non nớt và tội nghiệp của Liên, Hà Nội là một thiên đường ở trong mơ. Nhìn theo đoàn tàu đang xa dần, xa dần trong lòng Liên cứ rộn lên những bồi hồi, xao xuyến, ánh mắt của Liên cứ đắm chìm vào cõi mơ tưởng. Liên nghĩ về quá khứ, nghĩ về tương lai và hiện tại. Quá khứ tuổi thơ tươi sáng qua lâu rồi, tương lai thì mờ mịt mong manh còn hiện tại thì đầy bóng tối.

Những trạng thái tâm trạng ấy thật mơ hồ, mong manh mà chỉ có một tâm hồn nhạy cảm cùng với một tấm lòng nhân hậu của Thạch Lam mới có thể phát hiện và thể hiện được. Với chị em Liên, chuyến tàu từ Hà Nội về không chỉ là kí ức mà còn là hình ảnh của một tương lai tuy mơ hồ nhưng đẹp như một giấc mơ trong truyện cổ tích thần kì. Nó như một ảo ảnh vụt sáng lên rồi tắt dần, xa dần trong tâm trạng tiếc nuối của cô bé Liên. Nhưng dẫu sao nó vẫn là niềm vui, một niềm an ủi làm vơi đi mọi tẻ nhạt, buồn chán của hiện tại để hai chị em Liên đi vào giấc ngủ sau một ngày dài đầy buồn tẻ.

Không một chi tiết éo le, truyện Hai đứa trẻ chỉ xoay quanh tâm trạng hồi hộp, khắc khoải đợi tàu trong đêm của chị em Liên. Bắt đầu từ tiếng trống thu không, thời gian cứ trôi qua theo sự xuất hiện từng mảnh đời tàn tạ của phố huyện nghèo, người đọc bỗng nhận ra trong tiếng reo “Dậy đi, An. Tàu đến rồi” là tình cảm bùi ngùi thương cảm của nhà văn dành cho những con người nhỏ bé, tội nghiệp như bị chôn vùi trong cuộc sống leo lét vô nghĩa trong xã hội cũ trước cách mạng. Còn gì thương cảm hơn khi niềm vui, niềm an ủi và ước mơ, hi vọng của họ chỉ là một chuyến tàu đêm từ Hà Nội về vụt qua trong giây lát. Trang sách cuối cùng khép lại mà tâm trạng thức đợi tàu của chị em Liên cứ ám ảnh, cứ vấn vương ta hoài cứ như thầm thì nói hộ Thạch Lam: có những cuộc đời mới đáng thương và tội nghiệp làm sao nhưng cũng thật cảm động và đáng trân trọng biết bao khi họ vẫn vượt lên mọi tối tăm, lầm than trong hiện thực để ước mơ và hi vọng, để không mất đi niềm tin vào cuộc sống có chút ánh sáng trong tương lai. Ngày lại ngày, đêm lại đêm, Liên vẫn cố thức đợi tàu là những nỗ lực vừa cụ thể vừa mơ hồ muốn thoát ra khỏi hiện tại. Niềm tin và ước vọng ấy tuy mong manh nhưng tha thiết vô cùng trong tâm hồn hai đứa trẻ. Qua đó, ta nhận ra một tiếng kêu thổn thức trong trái tim của Thạch Lam. Cần phải thay đổi thế giới tăm tối này, cần phải đem đến cho con người nhất là trẻ thơ một cuộc sống hạnh phúc. Phải chăng hình ảnh hai chị em Liên cũng là hình ảnh của hai chị em cậu bé Vinh (tên hồi nhỏ của nhà văn Thạch Lam) ngày nào trên một phố huyện nghèo nay đã lùi sâu vào dĩ vãng của ông.

Là một truyện ngắn không có cốt truyện, đặc biệt nhà văn chỉ đi sâu vào thế giới nội tâm của hai đứa trẻ, đó là những biến thái mơ hồ, mong manh trong tâm trạng hai đứa trẻ nhưng đã được cảm nhận và thể hiện thật tinh tế trong lối viết văn mềm mại, trong sáng, giàu hình ảnh và nhạc điệu. Chỉ một âm thanh “tiếng còi xe lửa ở đâu vang lại trong đêm kéo dài ra theo ngọn gió xa xôi” cũng đủ để ta hình dung ra cô bé Liên đang sống trong mơ tưởng. Đó là âm thanh của chờ đợi và hi vọng nhưng cũng là dư âm của tiếc nuối. Đặc biệt là hình ảnh chuyến tàu đêm đi qua phố huyện vừa như là niềm tiếc nuối một quá khứ tươi sáng đã mất vừa là niềm an ủi vỗ về đối với hiện tại nhưng nó lại vừa gióng lên một cái gì tươi sáng ở tương lai. Vì thế chuyến tàu đêm được coi là một “nhãn tự” của bài thơ trữ tình đượm buồn này.

Đọc truyện ngắn “Hai đứa trẻ” ta có cảm giác như được đọc một “bài thơ trữ tình đượm buồn” bởi qua tâm trạng đợi tàu của hai chị em Liên ta rất dễ nhận ra một tiếng nói trữ tình thầm kín, nhẹ nhàng nhưng thấm thía vô cùng trong lòng người đọc.

Phân tích cảnh đợi tàu trong bài Hai đứa trẻ của Thạch Lam - Mẫu 8

Thạch Lam là nhà văn nổi tiếng của Văn học Lãng mạn những năm 1930-1945. Là một trong những cây bút của Tự lực văn đoàn, nhưng văn chương của Thạch Lam không quá xa vời thực tế như những cây bút trong nhóm. Mà văn chương của ông nhẹ nhàng chất đời lãng mạn. Nổi bật nhất phải kể đến truyện ngắn “Hai đứa trẻ”, câu chuyện chờ đợi tàu của chị em Liên nơi phố huyện Hà Nội những năm tháng trước Cách Mạng. Thiên truyện ngắn cốt truyện đơn giản nhưng lại đọng lại những suy ngẫm sâu sắc đặc biệt cảnh chờ đợi tàu của hai chị em Liên.

Truyện mở ra bằng tiếng trống thu không, hoàng hôn dần buông xuống nơi phố huyện heo hút. Rồi ánh đèn leo lét xuất hiện, cuộc sống con người quẩn quanh nơi phố huyện khi màn đêm dần bao phủ. Hai chị em Liên ngồi lặng im nhìn ngắm phố huyện, lòng đầy suy nghĩ. Trong nỗi nhớ về Hà Nội qua gánh phở bác Siêu, cũng là lúc tàu chuẩn bị đến.

Tàu chưa đến, chị em Liên và những con người nơi phố huyện dù mệt mỏi nhưng vẫn ngắc ngoải, mong chờ điều gì đó. Liên thấy “tâm hồn yên tĩnh.” Cái yên tĩnh bình yên, lặng lẽ trong khung cảnh đêm xuống. Rồi khi tàu đến, từ xa “ngọn lửa xanh biếc như trời”, “tiếng còi xe lửa trong đêm khuya kéo dài ra theo ngọn gió xa xôi”. Tàu đến gần, ánh sáng toả rạng một vùng. Đó là ánh sáng của “Ngọn đèn ghi” “toa tàu đèn sáng trưng, chiếu xuống đường”, “người, đồng và kền lấp lánh”. Âm thanh vang vọng trong không gian tiếng ghi tàu mạnh mẽ “tiếng dồn dập, tiếng xe rít mạnh vào ghi, kèm theo một làn khói bừng sáng trắng lên đằng xa, tiếp đến tiếng hành khách ồn ào khe khẽ.”

Đoàn tàu đến đem theo ánh sáng rực rỡ, sáng lóa làm lu mờ mọi ánh đèn leo lét nơi phố huyện, bừng lên mạnh mẽ. Không chỉ mang theo ánh sáng mà tàu đến mang theo cả thứ âm thanh rộn rã khác hẳn tiếng vo ve của muỗi trong hàng hay tiếng ếch nhái từ ngoài đồng ruộng xa. Bằng ngòi bút lãng mạn, bút pháp miêu tả đối lập, Thạch Lam đã khắc họa nên hai thế giới hoàn toàn khác biệt, đối lập để thấy rằng đoàn tàu đến mang theo mọi điều đẹp nhất.

Nhưng rồi đoàn tàu nhanh chóng vụt qua để lại bao tiếc nuối, ngậm ngùi. Đoàn tàu đi cuốn theo cả thế giới rực rỡ, vang động. Liên cảm nhận được sự thiếu hụt về cả âm thanh và con người khi đoàn tàu đi qua. Dường như em đã gắn bó với nơi này từ rất lâu, ghi nhớ sâu sắc từng khoảnh khắc. Đoàn tàu đi qua trả lại cho phố huyện sự im lặng. Đoàn tàu đi qua cũng là lúc khiến cho Liên lặng vào mơ tưởng nhớ về Hà Nội, nhớ về những kỉ niệm ngọt ngào xa xôi. Em buồn thương cho hiện tại mờ mịt, tiếc nuối cho quá khứ hạnh phúc và mơ tưởng về một tương lai.

Bằng những câu văn ngắt ngắn, liên hoàn Thạch Lam diễn tả sinh động tâm trạng bồi hồi, mang chút gì đó vừa xót thương vừa hi vọng của nhân vật Liên. Liên như thấy mình “sống giữa bao sự xa xôi”. Kết thúc truyện để lại trong lòng người đọc bao sự day dứt. Đoàn tàu đến mang theo ánh sáng lấp lánh, rực rỡ, mang theo âm thanh sinh động, vang vọng. Nhưng nó thuộc về thế giới khác. Thế giới không phải của Liên của An hay cửa con người nơi phố huyện. Nhưng đoàn tàu đi qua lại nhen lên cho những con người nơi đây ước mơ, khát khao về một tương lai dù mờ mịt nhưng họ không hề từ bỏ. Ngày nào họ cũng thức từ sáng đến đêm để đợi đoàn tàu đi qua, để ước mơ về điều gì đó xa xôi. Nhưng ước mơ của họ không biến mất mà âm ỉ chờ đợi điều gì đó làm bùng lên.

Truyện ngắn “Hai đứa trẻ” khắc họa sinh động thế giới tâm hồn của những con người cùng khổ trong xã hội cũ trước những năm Cách Mạng diễn ra. Hình ảnh đoàn tàu chỉ xuất hiện thoáng qua rồi vụt tắt mang theo ánh sáng, âm thanh, ước mơ và khát vọng. Như một niềm an ủi một mơ ước không bao giờ tắt, một chút ánh sáng cho ao đời tù đọng, đen tối triền miên của những số phận hẩm hiu, bất hạnh nhưng vẫn hi vọng vào một ngày mai tươi sáng hơn. Đó cũng là thông điệp và tình thương của Thạch Lam dành cho những nhân vật.

Phân tích cảnh đợi tàu trong Hai đứa trẻ ngắn gọn - Mẫu 9

Thạch Lam nhà nhà văn với nhiều câu chuyện trữ tình, đi sâu vào lòng người. Chỉ khi phân tích cảnh đợi tàu, bạn mới thấy ý nghĩa của cốt truyện, mà tác giả truyền đạt. Tác phẩm “hai đứa trẻ” là sự nhạy cảm của Thạch lam trước cảnh vật, làng quê nghèo và lòng người. Tác giả không đề cập đến những biến cố, mà hầu hết là tình cảm, và chiều sâu tâm trạng. Cảnh chờ tàu của Liên và An được Thạch Lam miêu tả chi tiết, tinh vi từng cảm xúc một.

Hai chị em Liên đợi tàu bởi vì “Mẹ vẫn dặn phải thức đến khi tàu xuống – Ðường sắt đi ngang qua ngay trước mặt phố – để bán hàng, may ra còn có một vài người mua”. Tuy nhiên, lý do mà chị em Liên đợi vì đoàn tàu đến mang theo ánh sáng, người đông đúc của chốn đô thị. Bán hàng lúc tàu đến chỉ ít ỏi, “với lại đêm họ chỉ mua bao diêm, hai gói thuốc là cùng”. Liên và An dù rất buồn ngủ, chỉ ngồi trong bóng tối nhưng vẫn cố gắng đợi tàu đến.

Liên đợi chuyến tàu đêm như là một việc làm cuối cùng của ngày, lúc tối muộn. Thực chất, Liên chỉ muốn thay đổi không khí của một ngày buồn bã, ảm đạm, đoàn tàu mang sự vui nhộn tới. Không chỉ Liên, An cũng vậy, hầu hết các đứa trẻ ở quê nghèo đều đợi tàu đến.

Qua đây chúng ta thấy Liên là người chị mẫu mực. Trước khi tàu đến, An buồn ngủ, “mí mắt sắp sửa rơi xuống”. Tuy nhiên, em vẫn cố dặn chị Liên “tàu đến chị đánh thức em dậy nhé”. Liên ngồi im ỉm trong bóng đêm và mong ngóng, tập trung chờ đợi tàu. Hình ảnh “ngọn lửa xanh biếc, sát mặt đất, như ma trơi” là dấu hiệu quen thuộc báo tàu đến. Từ xa, Liên nghe được tiếng còi và đánh thức An dậy. Liên gọi An với tâm thế vội vàng, cuống quýt, giục giã, chỉ trễ 1 chút sẽ bị bỏ lỡ. An nhanh chóng dậy với động thái ngây thơ là “lấy tay dụi mắt” rất đáng yêu.

Liên và An vô cùng háo hức, đợi tàu đến như đang chờ một điều gì đó mới mẻ, tươi sáng hơn. Sau một ngày dài ảm đạm, đêm đến bóng tối bao phủ, đoàn tàu đến mang lại ánh sáng, hy vọng lớn. Khi tàu đến “Liên dắt em đứng dậy để nhìn đoàn xe vụt qua, các toa đèn sáng trưng, chiếu ánh cả xuống đường. Liên chỉ thoáng trông thấy những toa hạng trên sang trọng lố nhố những người, đồng và kền lấp lánh, và các cửa kính sáng”. Đoàn tàu “vụt qua” chỉ trong thời gian ngắn, ánh sáng bao phủ, 2 chị em chỉ kịp thoáng nhìn.

Đoàn tàu chỉ đi ngang, thoáng qua nhanh chóng, nhưng mang đến những điều khác biệt. Mỗi ngày 2 chị em đều chờ tàu, An còn hỏi “tàu hôm nay không đông, chị nhỉ?”. Câu hỏi thể hiện sự so sánh, chú ý kỹ, tập trung nhất mỗi khi tàu qua để nhìn hết được. Tuy nhiên, Liên không trả lời câu hỏi của An, cảm xúc của cô vẫn còn xao xuyến. Đoàn tàu làm Liên mơ về Hà Nội, nơi rất xa xăm, giàu sang, ánh sáng rực rỡ. Qua đó chúng ta thấy Liên càng thêm chán nản, ngán ngẩm cuộc sống của cô.

Đoàn tàu mang đến cho 2 chị em Liên hy vọng hơn về tương lai tốt đẹp, rực rỡ, vui tươi. 2 cô gái luôn mơ mộng về một cuộc sống mới năng động, vui sướng. Khi tàu đi “Tiếng vang động của xe hỏa đã nhỏ dần, và mất dần trong bóng tối, lắng tai cũng không nghe thấy nữa”. Liên và An lại trở về với nỗi buồn, tiếp tục hy vọng tàu đến vào ngày mai. Niềm vui, sự chờ đợi mỏi mòn của 2 chị em chỉ đến và đi trong nháy mắt.

Phố huyện lại im ắng, chìm trong màn đêm u tối, Liên và An đi vào giấc ngủ quên. Liên vẫn mang trong trình tâm trạng tiếc nuối, suy nghĩ lan man về cuộc sống hiện tại. Cảnh đợi tàu của 2 chị em liên nói riêng và hoàn cảnh của cả phố huyện nghèo nói chung giống nhau.

Cảnh đợi tàu của Liên và An có rất nhiều ý nghĩa, tác giả muốn nói về ước mơ của những người dân nghèo. Họ luôn khao khát, chờ đợi, mơ về một cuộc sống tốt, ý nghĩa hơn. Thạch Lam đã miêu tả rất lãng mạn. Đoàn tàu là điểm nhấn của cả một bài văn, làm cho tâm lí nhân vật thêm đa dạng.

Mẫu phân tích cảnh đợi tàu trong Hai đứa trẻ  - Mẫu 10

Có lần nhà văn Thạch Lam từng nói rằng: "Cái đẹp man mác trong vũ trụ, len lỏi khắp hang cùng ngõ hẻm, tiềm tàng ở mọi vật tầm thường. Công việc của nhà văn là phát hiện cái đẹp kín đáo và che lấp của sự vật". Niềm khát khao truy tìm những cái đẹp lẩn khuất tiềm tàng khắp ở những con người, sự vật, sự việc tầm thường như thế đã tiếp thêm sức mạnh trên con đường nghệ thuật cho nhà văn, giúp ông sáng tác thành công tác phẩm Hai đứa trẻ, áng văn xuôi đặc sắc của văn học Việt Nam trước cách mạng. Đặc biệt là cảnh đợi chuyến tàu đêm của hai chị em Liên chính là nơi kết tinh những tư tưởng nghệ thuật sâu sắc và tiến bộ của Thạch Lam với ngòi bút nhân đạo, trữ tình.

Chuyến tàu đêm chủ yếu hiện lên qua cái nhìn và cảm nhận, qua niềm khát khao, mong đợi của Liên. Trong câu chuyện Thạch Lam đã tinh tế gài vào những chi tiết rất nhỏ, nhưng rất có ý nghĩa, qua đó thể hiện niềm khát khao về chuyến tàu qua phố huyện của Liên nó sâu sắc, thiết tha và mãnh liệt đến nhường nào. Dù trời đã rất khuya, "An và Liên đã buồn ngủ đến ríu cả mắt", nhưng hai chị em vẫn cố gắng thức để chờ tàu, không phải là để bán thêm được chút hàng như lời mẹ Liên dặn, mà bởi vì đợi chuyến tàu cuối cùng của đêm. Sự mong chờ mạnh mẽ của Liên với chuyến tàu có mối liên hệ mật thiết đến cái ý thức sâu sắc của Liên về cuộc sống cơ cực, nghèo khó và tối tăm nơi phố huyện, đồng thời qua chuyến tàu đêm Liên còn nhận thức rõ được một cuộc sống khác hẳn với cái nơi mà Liên và An đang sống. Tâm trạng của nhân vật Liên được Thạch Lam miêu tả một cách tinh tế, khi tàu chưa đến cô bé khát khao mong đợi chuyến tàu từ xa, hồi hộp vui sướng khi chuyến tàu đến, rồi cuối cùng là buồn bã thất vọng khi chuyến tàu đi xa.

Chuyến tàu hiện lên qua cảm nhận của Liên từ xa đến gần rồi xa mãi, con tàu còn hiện lên chủ yếu qua phương diện âm thanh, ánh sáng và cuộc sống trên tàu. Trước hết về ánh sáng, từ xa xa bác Siêu với ánh mắt trông mong đã kịp nhận ra và reo lên vui mừng "Đèn ghi đã ra kia rồi", đánh động đến những cảm nhận của Liên, trong tầm mắt Liên đó là những "ngọn lửa xanh biếc, sát mặt đất như ma trơi" , đầy sức quyến rũ, vẫy gọi đối với tâm hồn tươi trẻ của chị em Liên, sau đó cũng từ xa Liên cũng nhìn thấy "làn khói bừng sáng trắng lên đằng xa". Càng đến gần thì ánh sáng của con tàu càng rực rỡ, lộng lẫy và tươi tắn, "các toa đèn sáng trưng, chiếu cả xuống đường", "đồng và kền lấp lánh", "các cửa kính sáng". Tất cả những thứ ánh sáng ấy đều mạnh mẽ khác hẳn với ánh sáng nơi phố huyện, tù mù, tối tăm từ cái đèn dầu của chị Tí, bếp lửa của bác Siêu, ánh đom đóm, ánh sáng từ cánh cửa khép hờ,... Khác hẳn với cái ánh sáng leo lét, yếu ớt, mong manh, tội nghiệp nơi phố huyện của chị em Liên, cái ánh sáng mà dường như bị màn đêm nuốt chửng không chừng.

Tuy nhiên cái ánh sáng mạnh mẽ, đầy mơ ước ấy nó không ở lại lâu với chị em Liên mà chỉ thoáng qua trong chốc lát rồi vụt tắt hẳn, cái nó để lại chính là sự nuối tiếc, hụt hẫng là bóng tối bao trùm, yên lặng đến cùng cực. Hình ảnh "đốm than đỏ bay tung trên đường sắt", "hai chị em còn cố trông theo cái chấm nhỏ của ngọn đèn xanh treo trên toa sau cùng, xa xa mãi rồi khuất theo rặng tre" là những chi tiết có sức ám ảnh mạnh mẽ đối với người đọc, ánh mắt của hay đứa trẻ là cái nhìn đầy nuối tiếc vừa như muốn níu giữ lại vừa như muốn đi theo con tàu đêm ấy, thoát khỏi cái phố huyện nghèo nàn này.

Chuyến tàu đêm còn hiện lên qua những âm thanh tinh tế và đặc sắc trong cảm nhận của Liên, ngay từ khi ở rất xa âm thanh của con tàu cũng đầy sức hấp dẫn với tâm hồn thơ trẻ của Liên, "tiếng còi xe lửa ở đâu vang lại kéo dài ra trong gió xa xôi", âm thanh còn khá mơ hồ nhưng mạnh mẽ, phá tan cái yên tĩnh u buồn nơi phố huyện, xuyên qua bóng tối mang về cho phố huyện một xúc cảm khác hẳn. Thứ âm thanh ấy khác hẳn với những tiếng trống thu không, tiếng trống cầm canh khô khan, ngắn ngủi rồi chìm luôn vào bóng tối, không thể nào thoát ra nổi cái u buồn tịch mịch nơi làng quê nghèo đói.

Càng đến gần âm thanh của chuyến tàu đêm càng mạnh mẽ, càng náo nức "hai chị em chờ không lâu, tiếng còi đã rít lên, và tàu rầm rộ đi tới", "tiếng dồn dập", tiếng bánh xe "rít mạnh vào ghi". m thanh khuấy động cả phố huyện tăm tối, khác hẳn với những âm thanh nhỏ bé, buồn tẻ của phố huyện như tiếng muỗi vo ve, tiếng ếch nhái, tiếng chó sủa đêm. Nhưng cũng giống như ánh sáng, những âm thanh của con tàu cũng theo nhịp bánh của con tàu rồi mất hút ở phía xa "tiếng vang động của xe hỏa nhỏ rồi, và mất dần trong bóng tối, lắng tai cũng không nghe thấy nữa", sự biến mất của âm thanh cũng như ánh sáng để lại trong lòng chị em Liên những niềm nuối tiếc sâu sắc.

Cuộc sống trên tàu hiện lên qua bút pháp miêu tả của Thạch Lam và qua những cảm nhận tinh tế của Liên, dẫu rằng chỉ khi con tàu đến gần Liên mới có thể nhìn thấy một chút cuộc sống trên tàu "Liên chỉ thoáng trông thấy những toa hạng trên sang trọng lố nhố những người", "đồng và kền lấp lánh", "các cửa kính sáng". Liên chỉ chú ý những khoang hạng sang, bởi chỉ có cuộc sống trên ấy nó mới khác hẳn, giàu có, sung túc, sang trọng, tươi sáng như những gì mà Liên vẫn thường mơ về, không như cuộc sống tối tăm, nghèo nàn nơi phố huyện.

Như vậy về mọi phương diện, âm thanh, ánh sáng, cuộc sống trên tàu thì có thể nhận thấy rằng thế giới mà con tàu mang theo là một thế giới khác hẳn với phố huyện, chính vì vậy cho nên chuyến tàu đêm mới trở thành niềm khát khao, hy vọng của chị em Liên và những người dân nơi đây. Không chỉ khác với phố huyện, chuyến tàu đêm còn khác với chính nó trong những đêm trước đó "chuyến tàu đêm nay không đông như mọi khi, thưa vắng người và hình như kém sáng hơn", gợi nỗi buồn, nỗi thất vọng, nhưng vẫn không không dập tắt được niềm khao khát mãnh liệt của Liên. Liên vẫn kiên trì lặng người theo mơ tưởng "nhưng họ ở Hà Nội về", đưa Liên về những ký ức về một "Hà Nội xa xăm sáng rực, vui vẻ và huyên náo". Cuối cùng, cái đích chính của những khát khao mong đợi chính là "con tàu mang một chút thế giới khác đi qua", con tàu chính là sứ giả của một thế giới khác, và Hà Nội chính là hiện thân cụ thể của thế giới ấy.

Niềm khát khao mong đợi chuyến tàu đêm, cũng là niềm khát khao mong đợi về một thế giới khác hẳn với cái thế giới mình đang sống, niềm khát khao về một thế giới tươi sáng, tốt đẹp, đủ đầy, đưa chị em Liên ra khỏi cuộc sống tù túng bó hẹp trong cái phố huyện nghèo nàn, chán nản với những ngày tàn, chợ tàn và những kiếp người tàn. Đó là khát vọng đổi đời, dẫu còn mơ hồ nhưng lại vô cùng sâu sắc, thiết tha và mãnh liệt, của những con người giai đoạn tháng tám, ám ảnh hầu hết các nhà văn lúc bấy giờ.

Nhưng qua cảm nhận của Liên con tàu cũng chạy nhanh quá, nó mang đi theo hết những ánh sáng rực rỡ, âm thanh náo nức, cuộc sống tốt đẹp đi về phía xa để lại chị em Liên trong bóng tối, trong sự tĩnh lặng, trong sự nghèo khổ cơ cực của phố huyện. Con tàu tượng trưng cho sự vỡ mộng, nỗi thất vọng dấy lên từ một ước mơ mỏng manh, quá xa vời khó có thể trở thành hiện thực. Chuyến tàu đi qua, trả lại một phố huyện yên lặng, thậm chí còn tăm tối, u buồn hơn, để lại trong tâm hồn Liên những khoảng trống mênh mang mơ hồ. Từ đó nhà văn Thạch Lam muốn gửi đến độc giả một thông điệp thật ý nghĩa rằng để có một cuộc sống tươi đẹp, sung túc thì việc khát khao, mơ ước mãnh liệt là chưa đủ mà con người ta cần phải có những hành động thực tế, những nỗ lực thay đổi cuộc sống, nếu không ước mơ dẫu có đẹp đến mấy thì cũng mãi chỉ nằm trong tưởng tượng.

Niềm khát khao mong đợi chuyến tàu đêm, Liên chuyển hướng tâm hồn mình về một Hà Nội xa xăm, nơi mà Liên đã từng có cuộc sống ấm no sung túc, gợi nhắc cô về một thời quá vãng xa xăm, về những ký ức tươi đẹp của tuổi thơ đã mất. Song hành với những nuối tiếc quá khứ, thì chuyến tàu đêm lại càng khiến Liên phải ý thức rõ ràng hơn về cuộc sống u ám, bế tắc của người dân nơi phố huyện và của chính gia đình Liên nữa.

Trong tác phẩm Hai đứa trẻ Thạch Lam đã đi sâu vào khai thác tâm hồn của nhân vật, của những đứa trẻ nghèo khổ, ý thức sâu sắc về cuộc sống cơ cực nghèo khổ, là những cảm nhận tinh tế về bức tranh thiên nhiên làng quê Việt Nam, là nỗi xót xa ái ngại trước những mảnh đời tàn. Qua đó nhà văn thể hiện thái độ trân trọng những khát khao, hy vọng của con người về một cuộc sống tốt đẹp hơn, đồng thời cũng truyền tải một thông điệp rằng muốn thay đổi cuộc sống thì chỉ có khát khao, mong đợi thì không bao giờ là đủ, mà còn phải có cả hành động thực tế biến ước mơ thành hiện thực.

Về nghệ thuật Thạch Lam đã thành công trong việc miêu tả những cung bậc cảm xúc khác biệt trong tâm hồn của nhân vật Liên, văn phong trữ tình, lãng mạn, sáng tạo nhiều hình ảnh có ý nghĩa biểu tượng, kết hợp với phong cách viết truyện mà không có cốt truyện đã làm nên thành công lớn cho cả tác phẩm.

Tham khảo thêm:

Cảnh đợi tàu trong truyện Hai đứa trẻ - Mẫu 11

Thạch Lam là một trong những cây viết truyện ngắn xuất sắc của văn xuôi Việt Nam hiện đại. Ông là thành viên của nhóm tự lực văn đoàn nhưng ông mang một nét rất riêng so với các nhà văn trong nhóm. Văn của tự lực văn đoàn thường đượm một nỗi buồn lãng mạn còn văn của Thạch Lam lại chất chứa những nỗi buồn hiện thực. Nó như một thứ “Hương hoàng lan”, được cất từ những nỗi đời.

Truyện ngắn Hai đứa trẻ in trong tập Nắng trong vườn (1938), tác phẩm này tiêu biểu cho phong cách của Thạch Lam. Đó là kiểu truyện ngắn trữ tình đượm buồn. Nét phong cách này thể hiện sâu sắc ở khung cảnh phố huyện và tâm trạng đợi tàu của nhân vật Liên. Truyện ngắn của Thạch Lam là kiểu truyện ngắn trữ tình buồn hiện thực, không có cốt truyện, giàu cảm xúc, nhẹ nhàng và thấm thía như một bài thơ. Bức tranh phố huyện được miêu tả theo trình tự thời gian, cảnh phố huyện lúc chiều xuống.

Cảnh phố huyện lúc về đêm. Cảnh đợi tàu và cảnh phố huyện lúc có chuyến tàu khuya đi qua. Liên là một cô gái nhỏ vì cha mất việc, cả nhà phải chuyển từ Hà Nội về sống ở một phố huyện nghèo... Tuy còn nhỏ mà Liên đã tỏ ra đảm đang, thay mẹ trông coi một quán tạp hoá nhỏ để kiếm sống và Liên cũng rất chu đáo khi thay mẹ chăm sóc bé An. Đặc biệt Liên là một cô gái nhỏ dịu hiền, nhân hậu, đa cảm. Tâm trạng của Liên được khắc qua bốn cảnh ở phố huyện, như bốn nấc thang tâm lí: chiều muộn, đêm về, cảnh đợi tàu và chuyến tàu khuya.

Bức tranh thiên nhiên trong phố huyện khi ngày tàn được hiện lên qua điểm nhìn nhạy cảm và tinh tế của Liên. Đó là “Một buổi chiều êm ả như ru, văng vẳng tiếng ếch nhái kêu ran, ngoài đồng ruộng theo gió nhẹ đưa vào. Trong cửa hàng muỗi đã bắt đầu vo ve”. Trong bức tranh ấy có sự hòa trộn giữa hai hình ảnh: hình ảnh êm đềm lãng mạn và hình ảnh gợi sự nghèo khó, bần cùng. Phải chăng do cảnh chiều tàn mà gợi cho Liên nỗi buồn: “Liên ngồi yên lặng bên mấy quả thuốc sơn đen; đôi mắt chị bóng tối ngập đầy dần và cái buồn của buổi chiều quê thấm thía vào tâm hồn ngây thơ của chị; Liên không hiểu sao, nhưng chị thấy lòng buồn man mác trước cái giờ khắc của ngày tàn.” Thật khó để phân định rành rọt nỗi buồn ngoại cảnh thấm vào tâm cảnh hay nổi buồn tâm cảnh lan toả ra, nhuốm vào ngoại cảnh.

Ta chỉ thấy ở đây là một nỗi buồn sâu sắc trong tâm trạng. Chỉ có sự cảm nhận tinh tế và nhạy cảm như Liên mới thấu hiểu nó. Liên tuy không lam lũ vất vả như những mảnh đời kia. Nhưng lại là số phận đáng thương nhất. Vì quá khứ tươi đẹp của hai chị em Liên đã thuộc về dĩ vãng. Hiện tại thì buồn tẻ, tăm tối, bế tắc. Đúng là cuộc sống phố huyện cứ đang tàn dần, lụi dần trong đói nghèo lam lũ quẩn quanh. Những tâm hồn mới lớn như chị em Liên, chứng kiến những cảnh đó không buồn sao được, nhưng nỗi buồn cũng chỉ man mác đọng trong đôi mắt Liên “bóng tối ngập đầy dần” nó đang thấm dần vào tâm hồn Liên. Phố huyện như một sân khấu cuộc đời chỉ độc diễn một màn buồn tẻ, không có sự thay đổi của cả người lẫn cảnh. Đó là cuộc sống cứ “mốc lên, mòn đi, mục ra, rĩ ra” không lối thoát.

Nó gợi liên tưởng bởi hình ảnh “chiếc ao đời phẳng lặng”. Nhà văn không trực tiếp tả tâm trạng này của Liên, nhưng cảnh vật và cuộc sống qua cái nhìn của Liên đã khắc họa được tâm trạng đó. Sống trong hoàn cảnh như vậy, chị em Liên sao không khỏi chờ đợi một cái gì đó dù mơ hồ. Nỗi buồn dường như thấm thía hơn. Nhưng không hi vọng thì làm sao sống nổi. Và chuyến tàu đêm đã thắp lên niềm hi vọng đó. Cảnh chuyến tàu khuya và tâm trạng buồn vui của Liên, trong cả chuỗi thời gian dài buồn tẻ, thì ánh sáng, tiếng còi tàu chính là niềm vui lớn của hai chị em. Hai đứa đêm nào cũng náo nức thức chờ tàu.

Chúng không chờ tàu để bán hàng, đó là niềm vui tinh thần của hai chị em. Khi đoàn tàu đến Liên và An đứng cả dậy, hướng về phía con tàu, và khi nó đi rồi, “Liên vẫn lặng theo mơ tưởng”, con tàu đến rồi lại đi nhanh để lại trong hai đứa trẻ nổi buồn tiếc. Tàu đi rồi, phố huyện lại trở về với đêm tối và sự tĩnh lặng, càng nặng nề hơn. Niềm vui của hai đứa trẻ vừa lóe lên lại bị dập tắt như đám than bổng bùng lên cháy rực rồi lại lùi dần trong đêm. Nỗi chờ đợi bắt đầu khắc khoải từ khi bóng chiều xuống, đêm về và phố huyện vào khuya.

Hai đứa trẻ chờ đợi từng bước đi của thời gian, từng bước xích lại gần của chuyến tàu: tàu sắp đến, tàu vượt qua, tàu đi rồi chỉ còn lại ánh đèn ghi đỏ xa mãi rồi khuất sau rặng tre. Đêm tối lại bao bọc phố huyện. Miêu tả khung cảnh phố huyện buồn, nghèo nàn, tẻ nhạt, bế tắc và tâm trạng của hai đứa trẻ đặc biệt là Liên một cách trực tiếp và gián tiếp. Qua hiện thực và hồi ức đan xen, miêu tả bằng một giọng văn nhẹ nhàng, tinh tế, giàu chất thơ, nhà văn bộc lộ niềm xót thương những kiếp người đói nghèo, cơ cực, sống quanh quẩn, bế tắc trong xã hội cũ.

Từ đó tác giả như muốn lay tỉnh những tâm hồn uể oải, đang lụi tàn. Muốn nhen lên trong họ ngọn lửa khát khao được sống một cuộc sống tươi đẹp, ý nghĩa hơn. Khát khao thoát khỏi cuộc đời tăm tối đang chôn vùi họ. Truyện ngắn “Hai đứa trẻ” đã thể hiện sâu sắc cái tài và cái tâm của Thạch Lam.

Cảnh đợi tàu trong bài Hai đứa trẻ - Mẫu 12

Tuổi thơ là những ngày tháng đầy ắp kỉ niệm về những lần chờ đợi. Có ai mà không từng chờ đợi kì nghỉ hè để được chơi thỏa thích, chờ đợi đêm giao thừa để được quần áo mới hay đơn giản hơn là chờ đợi vài viên kẹo mỗi khi bà đi chợ về. Có chờ đợi nên chúng ta sẽ dễ dàng hiểu được sự hồi hộp, háo hức, hi vọng của chị em Liên trong truyện ngắn Hai đứa trẻ. Bao nhiêu nỗi niềm vui buồn của tuổi thơ và cả những khát vọng đời thường của con người được Thạch Lam gửi gắm hết vào cảnh đợi chờ chuyến tàu đêm từ Hà Nội qua phố huyện nghèo của chị em Liên.

Câu chuyện mở ra bằng âm thanh của tiếng trống thu không văng vẳng và cảnh tượng buổi chiều tan chợ của một phố huyện nhỏ. Cảnh tượng gợi trước mắt người đọc một không gian chật hẹp, nhỏ bé với những con người cũng lầm lũi, đáng thương. Nơi ấy, có hai chị em Liên và An vẫn ngày ngày ngồi bên gian hàng tạp hóa nhỏ trông hàng cho mẹ. Nơi ấy, mỗi chiều buông xuống, tiếng ếch nhái gọi nhau buồn tẻ, tiếng muỗi vo ve nao lòng. Cái âm thanh vốn ít ỏi, nhỏ bé ấy lại lọt thỏm vào màn đêm dày đặc. Bóng tối mỗi lúc mỗi phủ lấy mọi không gian, nó dày đặc, mịt mù khiến “đôi mắt chị bóng tối ngập đầy dần và cái buồn của buổi chiều quê thấm thía vào tâm hồn ngây thơ..”Phố huyện nghèo chốc lát bỗng thu nhỏ lại bên gian hàng nước của chị Tí. Cả ngọn đèn thưa thớt của chị Tí và bếp lửa của bác Siêu cũng không đủ sức xua đi phần nào cái bóng tối bao trùm.

Chị em Liên ngồi đấy, thu mình và đưa đôi mắt nhỏ bé ướt át để trông chờ con tàu Hà Nội. Phải rồi, chính là Hà Nội, nơi mà ngày xưa chị em Liên có cuộc sống sung túc cùng ba mẹ. Cái “vùng sáng rực và lấp lánh” ấy trong kí ức hai chị em như được dát bằng vàng, bằng thứ vàng sáng vừa thực nhưng vừa ảo diệu. Hà Nội đẹp và yên bình, không như cuộc sống buồn tẻ bên những kiếp người tàn mà hai đứa trẻ đang sống. Sự lầm lũi trở đi trở lại mỗi ngày khiến họ, những con người đã từng hi vọng trở thành những cái bóng bị khuất mờ bởi màn đêm.

Có thể Liên may mắn hơn chị Tí, bác Xẩm, bác Siêu vì em còn có một kí ức tươi đẹp về vùng sáng để mà có những phút giây tưởng nhớ và mơ mộng. Thế nhưng điều đó cũng mang lại cho em nỗi buồn lặng lẽ. Khi con người ta biết hạnh phúc và vui sướng thì cái cảm giác buồn tẻ sẽ càng nặng nề hơn một người suốt đời chưa có ngày thoát ra khỏi cái buồn. Tâm hồn của hai đứa trẻ vốn nhạy cảm, thơ ngây nên việc mơ mộng và khao khát là điều chính đáng. Lý do để hai chị em đợi đoàn tàu dù cả hai mắt đã ríu lại không phải để bán thêm ít hàng hoặc mong đợi một món quà nào của những người thân. Điều Liên và An chờ đợi chính là ánh sáng của Hà Nội đoàn tàu mang theo, đó là quá khứ vui vẻ cũng là tuổi thơ mà lẽ ra hai chị em được sống. Với hai chị em, đoàn tàu chưa qua có nghĩa là hoạt động cuối cùng trong ngày chưa kết thúc.

Không nhiều suy tư như chị mình vì An còn là cậu bé ngây thơ, duy chỉ có sự háo hức mong chờ là không mất đi dù cho đêm đã quá khuya. An nhiều lần căn dặn chị gọi mình khi tàu đến và chi tiết “An nhổm dậy, lấy tay dụi mắt cho tỉnh hơn” đã bộc lộ sự trưởng thành của đứa trẻ sớm phải xa rời cuộc sống êm ấm thị thành. An không như những đứa trẻ hay nhõng nhẽo, phụng phịu mỗi khi người lớn gọi dậy trong cơn mê ngủ. Với em, con tàu còn hơn cả giấc ngủ ngon. Chỉ có niềm say mê lớn lao mới đủ sức khiến một đứa trẻ chờ đợi bằng cả hi vọng như thế. Hiểu được tâm lý của hai chị em An và Liên, Thạch Lam đã chứng tỏ mình là người tinh tế, nhạy cảm và hơn hết là hiểu được tâm lí, tính cách của trẻ em.

Tín hiệu đầu tiên làm Liên nhận ra đoàn tàu không phải là đèn ghi hay tiếng máy xe xình xịch mà là “ngọn lửa xanh biếc, sát mặt đất như ma trơi”. Ngọn lửa sáng ấy chính là ánh sáng mà Liên khao khát, mong chờ. Cuối cùng sự chờ đợi ấy đã đến, hai chị em dồn mọi giác quan để được nghe, nhìn và cảm nhận đoàn tàu đang tiến về phía trước. Đáp lại sự mong đợi ấy, đoàn tàu như hiểu được tình cảm của những con người nơi phố huyện nên cứ nấn ná, chậm chạp. Con tàu hữu tình hay chính tấm lòng của nhà văn đã thổi niềm ưu ái vào số kiếp của những con người bé nhỏ. Cứ thế đoàn tàu hiện ra rõ ràng trước đôi mắt háo hức của Liên và An “các toa đèn sáng trưng, chiếu sáng cả xuống đường. Liên chỉ thoáng trông thấy những toa hạng trên sang trọng, lố nhố những người đồng và kền lấp lánh..” Ngoại trừ ánh sáng của ngọn đèn dầu và bếp lửa hiu hắt đầu truyện thì cho đến khi đoàn tàu xuất hiện, cái ánh sáng rực rỡ mới thật sự xuất hiện. Ánh sáng nhiệm màu ấy dù đến trong phút chốc nhưng mới thật sự đủ sức xua đi bóng đêm u ám bao trùm cả tác phẩm.

Trong phút chốc, cả phố huyện không chỉ bừng sáng mà còn nhộn nhịp bởi âm thanh vui vẻ từ toa tàu “tiếng còi rít lên, tiếng hành khách ồn ào”. Cái âm thanh nhộn nhịp của thành thì mà đoàn tàu mang đến khác hẳn với cuộc sống im lặng, đơn điệu của xóm huyện nghèo. “Chừng ấy người trong bóng tối mong đợi một cái gì tươi sáng cho sự sống nghèo khổ của họ”. Thế rồi khi con tàu khuất dần sau rặng tre chỉ để lại những chấm sáng nhỏ cũng là lúc một ngày khép lại. Bao nhiêu sự mong chờ, nuối tiếc và ước vọng đều theo thứ ánh sáng ấy ra đi.

Thạch Lam đã rất thành công khi khắc họa trạng thái tâm lý của hai đứa trẻ thông qua cảnh chờ đợi chuyến tàu đêm. Kết hợp với giọng văn nhẹ nhàng đậm chất thơ, câu chuyện vẽ nên một bức tranh về hai đứa trẻ và những con người bé nhỏ nơi phố huyện nhưng bị chìm lặng trong bóng tối. Hình ảnh con tàu mang ánh sáng Hà Nội là tấm lòng mà nhà văn dành cho những kiếp người lẻ loi như bị lãng quên. Nhà văn ước muốn đều họ mong mỏi là thoát khỏi cuộc sống tẻ nhạt, u tối. Thông qua chi tiết chờ đợi con tàu, Thạch Lam muốn thức tỉnh lòng khát sống của những tâm hồn đang uể oải vì thời cuộc. Điều đáng sợ không phải là không có gì để hi vọng và chờ đợi mà là không dám hi vọng và chờ đợi.

Dù sáng tác trong trào lưu văn học lãng mạn nhưng Thạch Lam lại hướng đến những kiếp người nhỏ bé, đơn độc. Thông qua việc xây dựng thành công hai nhân vật Liên và An trong cảnh đợi chuyến tàu đêm, nhà văn đã thể hiện được tư tưởng nhân văn và tấm lòng nhân đạo của mình. Chẳng còn An và Liên cùng chuyến tàu đêm nữa nhưng đâu đó trong cuộc đời cần lắm thông điệp của Thạch Lam để vực dậy những kiếp người lẻ loi, bất hạnh “hãy thắp ngọn lửa hi vọng cho mỗi cuộc đời dù đó chỉ là ngọn lửa nhỏ bé trong phút chốc”.

Mẫu phân tích cảnh đợi tàu trong bài Hai đứa trẻ của Thạch Lam - Mẫu 13

Một truyện ngắn hay theo quan niệm truyền thống phải có cốt truyện đặc biệt được tạo ra bởi những tình huống éo le đầy kịch tính. Không đi theo lối mòn đó, truyện “Hai đứa trẻ” in trong tập “Nắng trong vườn” của Thạch Lam chỉ là một chuyện tâm tình nhỏ nhẹ nhưng không vì thế mà ta có thể dễ dàng quên được tâm trạng thức đợi tàu của chị em Liên.

Ngày lại ngày khi đêm về khuya, chuyến tàu từ Hà Nội về đi qua phố huyện vậy mà hai chị em Liên vẫn khắc khoải thao thức và nhẫn nại, hồi hộp chờ đợi được nhìn nó với bao vui buồn và hi vọng.Thạch Lam là một nhà văn lãng mạn tiêu biểu của nhóm Tự Lực Văn Đoàn. Sáng tác của ông thiên về phản ánh hiện thực đời sống của tầng lớp người nghèo ở các phố huyện nhỏ và làng quê nghèo. Đọc những truyện ngắn “Gió lạnh đầu mùa”, “Dưới bóng hoàng lan”… nhất là truyện ngắn “Hai đứa trẻ” ta dễ dàng nhận ra một lối viết thật tinh tế cùng tấm lòng rất mực nhạy cảm và nhân hậu. Ở đó, ông chủ yếu đi sâu thể hiện những xúc cảm mong manh mơ hồ trong thế giới nội tâm nhân vật vì thế truyện ngắn của ông còn được ví như “một bài thơ trữ tình đượm buồn”.

Câu chuyện được bắt đầu với những xao động trong tâm hồn hai đứa trẻ khi nghe tiếng trống thu không gọi chiều về trên phố huyện. Tiếp đó, màn đêm buông xuống, bóng tối “ngập đầy dần đôi mắt Liên”. Đêm tối như ôm trùm lên tất cả phố huyện và càng dày đặc mênh mông hơn khi nhà văn điểm vào đó những “hột sáng”, “quầng sáng” leo lét, lờ mờ và một chấm lửa nhỏ lơ lửng trôi đi trong đêm… Nổi bật lên giữa thế giới đầy bóng tối và sự tàn tạ của cảnh vật: chiều tàn, chợ tàn, chõng tàn… là cảnh sống lam lũ quẩn quanh của những đứa trẻ nhặt rác, mẹ con chị Tí với gánh hàng nước ế ẩm, gia đình bác xẩm, bà cụ Thi điên và hai chị em Liên và An với gian hàng tạp hoá còm cõi, lèo tèo, xơ xác. Cuộc sống của hai chị em thật lay lắt, tẻ nhạt, ngày cũng như đêm cứ lặp đi lặp lại thật đơn điệu và buồn chán. Hai em như hai cái mầm non mọc trên mảnh đất cằn cỗi, bạc phếch. Nhưng con người tự muôn đời nay luôn luôn sống trong khao khát và hi vọng những gì tươi sáng hơn dù trong bất cứ hoàn cảnh nào.

Sống giữa phố huyện nghèo đầy bóng tối nhưng chị em Liên cũng như chừng ấy người nơi phố huyện vẫn luôn “mong đợi một cái gì tươi sáng hơn cho sự sống nghèo khổ hàng ngày của họ”. Đó chính là lí do khiến chị em Liên đêm đêm vẫn cố thức để được nhìn chuyến tàu đi qua bởi chuyến tàu chỉ vụt qua nhưng đã mang đến cho họ một thế giới khác hẳn vừng sáng ngọn đèn của chị Tí và ánh lửa trong gian hàng bác Siêu chứ không đơn thuần là vâng lời mẹ dặn để có thể bán thêm một ít hàng bởi “họ chỉ mua bao diêm hay gói thuốc là cùng”. Bởi lẽ đó mà Liên “dù buồn ngủ díu cả mắt vẫn cố thức, còn An “đã nằm xuống, mi mắt sắp sửa rơi xuống vẫn không quên dặn chị “Tàu đến chị đánh thức em dậy nhé”.Có lẽ bởi vậy mà chuyến tàu được nhà văn tập trung bút lực miêu tả một cách tỉ mỉ theo trình tự thời gian, qua tâm trạng của hai chị em Liên và An.

Khi đêm đã về khuya, Liên vẫn thao thức không ngủ cho tới lúc “tiếng còi xe lửa ở đâu vang lại, trong đêm khuya kéo dài ra theo ngọn gió xa xôi”. Liên đã reo lên “Dậy đi, An. Tàu đến rồi”. Chuyến tàu chỉ dừng lại trong giây lát rồi đi vào đêm tối mênh mông giống như một ánh sao băng lấp lánh bất chợt bay qua nền trời rồi vụt tắt, mang theo bao ước mơ và hoài bão đi tới nơi nào chẳng rõ vậy nên hai chị em Liên “vẫn nhìn theo cái chấm nhỏ của chiếc đèn xanh treo trên toa sau cùng, xa xa mãi rồi khuất hẳn sau rặng tre”.

Chuyến tàu đêm nay không đông và kém sáng hơn mọi ngày nhưng Liên vẫn “lặng theo mơ tưởng. Hà Nội xa xăm, Hà Nội sáng rực vui vẻ và huyên náo. Con tàu như đã đem một thế giới khác đi qua. Một thế giới khác hẳn, đối với Liên, khác hẳn cái vầng sáng của ngọn đèn của chị Tí và ánh lửa của bác Siêu”. Đó là hình ảnh của Hà Nội trong kí ức tuổi thơ, Hà Nội của những kỉ niệm đẹp mà bấy lâu nay chị em Liên vẫn tha thiết hướng về dù chỉ trong giây lát “theo dòng mơ tưởng”. Phải chăng những kỉ niệm tươi sáng thường in đậm và khắc sâu trong tâm hồn tuổi thơ giống như một chiếc gối êm đềm ru ta vào giấc ngủ dịu êm dù thực tại có phũ phàng hay ảm đạm. Xa Hà Nội đã lâu rồi nhưng chị em Liên vẫn “nhớ như in” những lần “đi chơi bờ hồ được uống những cốc nước lạnh xanh đỏ, ăn những thức ăn ngon lạ”. Họ nhớ như in “một vùng sáng rực và lấp lánh” dù hiện tại với hai em mùi phở của bác Siêu thật hấp dẫn nhưng “quá xa xỉ, nhiều tiền,hai chị em không bao giờ mua được”.

Tuy vậy, nó cứ gợi nhớ mùi thơm của hồi nào… Hình ảnh chuyến tàu đêm là kí ức đẹp của tuổi thơ một thời nhớ lại trong tiếc nuối. Chuyến tàu càng sáng rực, vui vẻ thì Liên càng ý thức rõ hơn cảnh sống tăm tối, buồn tẻ và chìm lặng của phố huyện nghèo. Đoàn tàu đi rồi, đêm tối vẫn “bao bọc chung quanh”. Liên gối đầu lên tay và nhắm mắt lại để “hình ảnh thế giới xung quanh mình mờ mờ đi trong mắt chị”. Đó là lúc thấm thía sâu sắc nỗi buồn về một cuộc sống mòn mỏi, quẩn quanh không thể đổi thay, Liên “thấy mình sống giữa bao nhiêu sự xa xôi không biết như chiếc đèn con của chị Tí chỉ chiếu sáng một vùng đất nhỏ”. Đó là hình ảnh gây ấn tượng day dứt buồn cuối cùng đi vào giấc ngủ của cô bé Liên. Nhưng đâu chỉ buồn và tiếc nuối, hai chị em Liên còn hồi hộp vui sướng khi tàu về như “mong đợi một cái gì tươi sáng hơn đến với cuộc sống nghèo khổ thường ngày của họ”. Cuộc sống hiện tại xung quanh Liên thật buồn tẻ, chuyến tàu từ Hà Nội về như đã đem lại một chút thế giới khác đi qua phố huyện nghèo. Bởi vậy, khi tàu về rồi “khuất dần sau rặng tre” mà Liên vẫn cứ “lặng theo mơ tưởng”. Dường như Liên đang ấp ủ trong lòng một khát khao thay đổi cuộc sống của hiện tại vẫn le lói một niềm hi vọng rồi một ngày nào đó được trở lại cuộc sống tươi sáng của ngày xưa như khi còn ở Hà Nội.

Trong ý nghĩ hồn nhiên, non nớt và tội nghiệp của Liên, Hà Nội là một thiên đường ở trong mơ. Nhìn theo đoàn tàu đang xa dần, xa dần trong lòng Liên cứ rộn lên những bồi hồi, xao xuyến, ánh mắt của Liên cứ đắm chìm vào cõi mơ tưởng. Liên nghĩ về quá khứ, nghĩ về tương lai và hiện tại. Quá khứ tuổi thơ tươi sáng qua lâu rồi, tương lai thì mờ mịt mong manh còn hiện tại thì đầy bóng tối. Những trạng thái tâm trạng ấy thật mơ hồ, mong manh mà chỉ có một tâm hồn nhạy cảm cùng với một tấm lòng nhân hậu của Thạch Lam mới có thể phát hiện và thể hiện được. Với chị em Liên, chuyến tàu từ Hà Nội về không chỉ là kí ức mà còn là hình ảnh của một tương lai tuy mơ hồ nhưng đẹp như một giấc mơ trong truyện cổ tích thần kì. Nó như một ảo ảnh vụt sáng lên rồi tắt dần, xa dần trong tâm trạng tiếc nuối của cô bé Liên. Nhưng dẫu sao nó vẫn là niềm vui, một niềm an ủi làm vơi đi mọi tẻ nhạt, buồn chán của hiện tại để hai chị em Liên đi vào giấc ngủ sau một ngày dài đầy buồn tẻ.

Không một chi tiết éo le, truyện hai đứa trẻ chỉ xoay quanh tâm trạng hồi hộp, khắc khoải đợi tàu trong đêm của chị em Liên. Bắt đầu từ tiếng trống thu không, thời gian cứ trôi qua theo sự xuất hiện từng mảnh đời tàn tạ của phố huyện nghèo, người đọc bỗng nhận ra trong tiếng reo “Dậy đi, An. Tàu đến rồi”là tình cảm bùi ngùi thương cảm của nhà văn dành cho những con người nhỏ bé, tội nghiệp như bị chôn vùi trong cuộc sống leo lét vô nghĩa trong xã hội cũ trước cách mạng.

Còn gì thương cảm hơn khi niềm vui, niềm an ủi và ước mơ, hi vọng của họ chỉ là một chuyến tàu đêm từ Hà Nội về vụt qua trong giây lát. Trang sách cuối cùng khép lại mà tâm trạng thức đợi tàu của chị em Liên cứ ám ảnh, cứ vấn vương ta hoài cứ như thầm thì nói hộ Thạch Lam: có những cuộc đời mới đáng thương và tội nghiệp làm sao nhưng cũng thật cảm động và đáng trân trọng biết bao khi họ vẫn vượt lên mọi tối tăm, lầm than trong hiện thực để ước mơ và hi vọng, để không mất đi niềm tin vào cuộc sống có chút ánh sáng trong tương lai. Ngày lại ngày, đêm lại đêm, Liên vẫn cố thức đợi tàu là những nỗ lực vừa cụ thể vừa mơ hồ muốn thoát ra khỏi hiện tại. Niềm tin và ước vọng ấy tuy mong manh nhưng tha thiết vô cùng trong tâm hồn hai đứa trẻ. Qua đó, ta nhận ra một tiếng kêu thổn thức trong trái tim của Thạch Lam. Cần phải thay đổi thế giới tăm tối này, cần phải đem đến cho con người nhất là trẻ thơ một cuộc sống hạnh phúc. Phải chăng hình ảnh hai chị em Liên cũng là hình ảnh của hai chị em cậu bé Vinh (tên hồi nhỏ của nhà văn Thạch Lam) ngày nào trên một phố huyện nghèo nay đã lùi sâu vào dĩ vãng của ông.Là một truyện ngắn không có cốt truyện, đặc biệt nhà văn chỉ đi sâu vào thế giới nội tâm của hai đứa trẻ, đó là những biến thái mơ hồ, mong manh trong tâm trạng hai đứa trẻ nhưng đã được cảm nhận và thể hiện thật tinh tế trong lối viết văn mềm mại, trong sáng, giàu hình ảnh và nhạc điệu.

Chỉ một âm thanh “tiếng còi xe lửa ở đâu vang lại trong đêm kéo dài ra theo ngọn gió xa xôi” cũng đủ để ta hình dung ra cô bé Liên đang sống trong mơ tưởng. Đó là âm thanh của chờ đợi và hi vọng nhưng cũng là dư âm của tiếc nuối. Đặc biệt là hình ảnh chuyến tàu đêm đi qua phố huyện vừa như là niềm tiếc nuối một quá khứ tươi sáng đã mất vừa là niềm an ủi vỗ về đối với hiện tại nhưng nó lại vừa gióng lên một cái gì tươi sáng ở tương lai. Vì thế chuyến tàu đêm được coi là một “nhãn tự” của bài thơ trữ tình đượm buồn này.

Đọc truyện ngắn “Hai đứa trẻ” ta có cảm giác như được đọc một “bài thơ trữ tình đượm buồn” bởi qua tâm trạng đợi tàu của hai chị em Liên ta rất dễ nhận ra một tiếng nói trữ tình thầm kín, nhẹ nhàng nhưng thấm thía vô cùng trong lòng người đọc.

►►CLICK NGAY vào nút TẢI VỀ dưới đây để tải về Top 13 mẫu phân tích cảnh đợi tàu trong Hai đứa trẻ hay và đặc sắc nhất file PDF hoàn toàn miễn phí.

Đánh giá bài viết
5.0
2 lượt đánh giá
Có thể bạn quan tâm
CÔNG TY CỔ PHẦN TRUYỀN THÔNG HDC VIỆT NAM
Tầng 3, toà nhà S3, Vinhomes Skylake, đường Phạm Hùng, quận Nam Từ Liêm, Hà Nội
Liên hệ quảng cáo: tailieucom123@gmail.com
Copyright © 2020 Tailieu.com