Giới thiệu đến các em học sinh và thầy cô giáo 5 mẫu bài phân tích đoạn 4 tác phẩm Tây Tiến của nhà thơ Tố Hữu được chúng tôi sưu tầm, tổng hợp chi tiết dưới đây:
Tham khảo thêm:
Bài văn mẫu số 1:
Quang Dũng là người làng Phượng Trì ở Hà Tây nhưng ông chủ yếu sống ở Hà Nội. Ông là nghệ sĩ đa tài vừa làm thơ, vừa viết nhạ, họa nhưng thành công hơn cả là lĩnh vực thơ ca. Thơ ông thường tinh tế, nhẹ nhàng, sâu lắng. Trong những tác phẩm mà ông viết, Tây Tiến là một trong những tác phẩm đặc sắc để lại nhiều ấn tượng trong lòng người đọc. Đặc biệt khổ cuối bài thơ là lời hẹn và trở về với Tây tiến của tác giả đầy xúc động.
Đơn vị tây tiến được thành lập vào năm 1947 mục đích phối hợp với Lào để bảo vệ biên cương Lào – Việt, đích tiêu hao địch ở Thượng Lào để hỗ trợ cuộc kháng chiến những vùng núi khác trên đất Lào. Địa bàn hoạt động tây tiến khá rộng, tất cả đều là những nơi hoang vu, hẻo lánh, hiểm trở, núi cao, sông rộng, rừng nhiều thú dữ. Bộ đội đoàn quân Tây Tiến vô cùng vất vả, khó khăn với căn bệnh sốt rét, thiếu lương thực, gầy xanh lét, họ chết vì bệnh tật còn nhiều hơn vì súng đạn, thậm chí khi chết cũng không có manh chiếu để đắp. Tuy nhiên, đoàn quân tây tiến rất lạc quan, yêu đời, họ phần lớn là thanh niên hà thành vẫn giữ được cốt cách hào hoa, lãng mạng hào hùng.
Tác giả vốn là đội trưởng của đoàn quân tây tiến, sau khi tạm biệt đoàn quân và đến chiến trường khác theo sự phân công của cấp trên, ông đã rất nhớ đoàn quân tây tiến và sáng tác nên bài thơ này. Trong khổ cuối bài thơ là lý tưởng của đoàn quân tây tiến và ngày hẹn gặp lại.
Tây Tiến người đi không hẹn ước,
Đường lên thăm thẳm một chia phôi.
Người đi không hẹn ước chính là tinh thần tự nguyện và quả cảm của người lính tây tiến. Đã xác định ra chiến trường là không hẹn ngày về. Đã từng có một thế hệ như vậy, một thế hệ với lý tưởng cứu nước, tinh thần xả thân thật đẹp đẽ , thật thiêng liêng biết bao. Vì dân tộc, họ chấp nhận dâng hiến trọn vẹn mà không chút tính toán cho mình, họ sẵn sàng đi mà chẳng tiếc đời xanh.
Nhà thơ Nguyễn Đình Thi cũng từng viết:
Người ra đi đầu không ngoảnh lại
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy…
Sự ra đi quả quyết của họ khiến chúng ta phải ngưỡng mộ. Ở độ tuổi họ ra chiến trường có lẽ cùng chạc tuổi 18, đôi mươi, tuổi trẻ nhiệt huyết còn bao nhiêu điều tươi đẹp phía trước. Vậy mà họ vẫn đi dẫu biết “đường lên thăm thẳm một chia phôi”, dẫu biết phía trước là khó khăn, đến gần hơn cánh cửa tử thần, nhưng vẫn quyết tâm đi.
Hai câu thơ chính là hình ảnh bi tráng, sẵn sàng hi sinh cho nghiệp lớn của đoàn binh tây tiến. Đường lên thăm thẳm chính là những khó khăn chồng chất khó khăn, đó là điều kiện sinh hoạt vô cùng khó khăn, thiếu thốn khiến cho hành trình gian nan vất vả hơn, đó là tử thần luôn rập rình khiến cho hi vọng trở về càng mong manh.
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy,
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi.
Hai câu thơ cuois càng khắc sâu hơn tinh thần bi tráng, sẵn sàng hi sinh cho nghiệp lớn của đoàn binh tây tiến. Mùa xuân 1947, binh đoàn tây tiến được thành lập và cũng có thể là mùa xuân sáng lạn nhất của đất nước khi hòa bình. Đoàn quân tây tiến đã đi trong niềm hân hoan và hi vọng về lí tưởng của mình. Và dẫu cho hi sinh nhưng vẫn mang những nguyện vọng thật đẹp hòa vào núi sông để mãi mãi bảo vệ tổ quốc non sông.
Tinh thần của họ khiến ta liên tưởng tới những dòng thơ của nhà thơ Trần Bá Căn:
Có một thời để nhớ mãi trong tôi
Đã tiến bước dưới quân kì quyết thắng
Bất chấp đạn bom, kể chi trời mưa nắng
Súng chắc tay- thời đó mãi sao quên.
Đối với họ có một thời như thế đó, bất chấp bom đạn, hi sinh sẵn sàng ra chiến trường vì lý tưởng của mình. Và mục đích cuối cùng là đánh đuổi kẻ thù mang lại hòa bình cho dân tộc, gần hơn đó là mang lại sự bình yên hạnh phúc cho chính những người thân của mình.
Có một thời như thế và có những người lính đã như thế. Người lính Tây Tiến của Quang Dũng cũng mang lí tưởng như vậy, dẫu hi sinh vẫn dõi theo nhau, quyết không về xuôi, hòa mình vào núi rừng để luôn ở bên đồng đội.
Quang dũng đã sử dụng bút pháp lãng mạn để nói về lí tưởng và tinh thần hi sinh cao đẹp của người lính Tây Tiến. Dưới ngòi bút của nhà thơ tài hoa, đoàn quần tây tiến được khắc lenen là tập thể anh hùng tiêu biểu cho một thời kì lịch sử bi tráng. Đoạn thơ cũng bộc lộ tình đồng chí đồng đội thắm thiết của Quãng Dũng.
Bài văn mẫu số 2:
Khổ cuối bài thơ, âm điệu trở nên tha thiết sâu lắng, bồi hồi. Vẫn là tiếng lòng rung lên theo hoài niệm. Biết bao thương nhớ khôn nguôi:
"Tây Tiến người đi không hẹn ước
Đường lên thăm thẳm một chia phôi
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi".
Mùa xuân ấy, khi "Tiếng kèn kháng chiến vang dậy non sông" (Hồ Chí Minh), đoàn binh Tây Tiến xuất quân. Họ đã tiến ra sa trường với lời hẹn ước: "Nhất khứ bất phục hoàn". Đó là lời thề, là quyết tâm của cả một thế hệ "Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh". Các anh đã giã biệt quê hương. Những ai còn ai mất sau những tháng ngày đầy máu lửa? Bạn bè, đồng đội thân yêu, những ai đó "Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi". Nhưng quê hương vẫn đời đời ôm ấp bóng hình anh, người chiến sĩ trong binh đoàn Tây Tiến. Bài thơ đã khép lại mà âm điệu của nó vẫn bồi hồi vang vọng trong tâm hồn ta.
Có những bài thơ một thời nhưng cũng có một số bài thơ mãi mãi. Thơ hay không có tuổi cũng như mùa xuân không ngày tháng. Đó là "Đèo cả" của Hữu Loan, là "Nhớ" của Hồng Nguyên, "Đồng Chí" của Chính Hữu. "Tây Tiến"của Quang Dũng
"Tây Tiến" là một trong những bài thơ hay nhất viết về người chiến sĩ cầm súng bảo vệ Tổ quốc, tiêu biểu cho thơ ca Việt Nam thời kháng chiến chống Pháp. Với bút pháp lãng mạn, với cốt cách tài hoa, phong độ hào hùng của nhà thơ – chiến sĩ, Quang Dũng đã khắc chạm vào thời gian, vào thơ ca và lòng người hình ảnh người chiến sĩ vô danh Thăng Long – Hà Nội, của dân tộc Việt Nam anh hùng. Trước linh hồn người liệt sĩ, ta thắp lên nén tâm hương, nghiêng mình với tình cảm biết ơn và kính phục nhà thơ và những chiến sĩ vinh quang trong đoàn binh Tây Tiến.
Bài văn mẫu số 3:
Tây Tiến là một trong những bài thơ được xem là hay nhất của Quang Dũng. Bài thơ được viết năm 1984, ở làng Phù Lưu Chanh khi ông tạm xa đơn vị một thời gian. Đoàn quân Tây Tiến được thành lập mùa xuân năm 1947, chiến sĩ của đơn vị phần đông là người Hà Nội. Nội dung chủ yếu của bài thơ khắc họa người lính hào hoa và vẻ đẹp bi tráng. Đoạn cuối bài thơ Tây Tiến thể hiện cảm nghĩ của tác giả về đoàn quân và tình cảm đồng đội trong những ngày tháng chiến đấu đầy kỉ niệm.
Tây Tiến người đi không hẹn ước
Đường lên thăm thẳm một chia phôi
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy,
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi.
Tinh thần của đoàn quân Tây Tiến thể hiện trong khổ thơ này đó là "Người đi không hẹn ước” ra đi chiến đấu không ước hẹn ngày về, tinh thần hi sinh vì nước, xả thân vì nước. Bởi lẽ, đường lên thăm thẳm một chia phôi: Mỗi bước chân hành quân đi lên, dốc đèo và những bản làng mờ sương lùi lại phía sau. Hoàn cảnh chiến đấu rất khắc nghiệt, có bao nhiêu gian khổ, thiếu thốn nên hành trình chiến đấu là những hi sinh tiếp nối, càng khó có hi vọng trở về. Do hoàn cảnh lịch sử quá ngặt nghèo, cuộc kháng chiến chống Pháp giai đoạn đầu chẳng khác nào lấy trứng chọi đá, đòi hỏi phải lấy tính mạng để đổi độc lập tự do. Bao thế hệ thanh niên cầm súng ra chiến trường với tinh thần "quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh".
Ý thơ lột tả lí tưởng chiến đấu cao cả của anh bộ đội cụ Hồ, làm nổi bật phẩm chất yêu nước anh hùng của họ. Do tinh thần bi tráng ấy mà mùa xuân thành lập đoàn quân trở thành một mốc lịch sử ghi nhận công lao to lớn của những con người anh hùng bỏ mình vì nước. Những trái tim và linh hồn ấy còn ở lại với Sầm Nứa, tan vào với núi sông nên sẽ bất tử với thời gian. Cách nói chẳng về xuôi thể hiện thái độ bất cần, khinh bạc, thể hiện chất lãng tử kiêu hùng nên tinh thần hi sinh mang vẻ đẹp lãng mạn. Nghệ thuật dùng từ rất dứt khoát “không hẹn ước, chia phôi, hồn về” kết hợp với giọng thơ nhẹ nhàng mềm mại nên đoạn thơ nói về sự hi sinh lại thấm đượm chất lãng mạn của các chiến sĩ Tây Tiến.
Đoạn thơ cũng như bài thơ nói về cái chết nhưng không gieo vào lòng người đọc sự bi ai mà gợi tinh thần bi tráng. Đoạn thơ còn bộc lộ tâm tư của nhà thơ: "Tây Tiến người đi không hẹn ước". Người đi ở đây là tác giả. Tác giả đã ra đi không hẹn ngày về lại đơn vị cũ. Trong khi đoàn binh hành quân càng về phía Tây càng xa cách, hi vọng ngày gặp lại càng mong manh. Trong khoảng cách không gian dịu vợi, nỗi nhớ đồng đội của nhà thơ càng tỏa ra mênh mông: "Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi". Nỗi nhớ trào lên trong lòng da diết bởi lẽ có bao nhiêu kỉ niệm chiến đấu với đoàn quân kể từ mùa xuân ấy, do đó người đi xa mà tâm hồn vẫn gần gũi. Nhà thơ ở nơi này mà tâm hồn đã gợi lại nơi Sầm Nứa trên kia, vẫn gắn bó với đoàn quân. Sự phân thân ấy cho thấy tình đồng chí, đồng đội thắm thiết của nhà thơ. Giọng điệu trữ tình góp phần làm nổi rõ tiếng nói tình cảm của nhà thơ. Đoạn thơ có hai giọng, giọng của đoàn binh được tác giả nói hộ và giọng của tác giả nên nội dung đa nghĩa, tạo ra vẻ đẹp ngôn từ.
Đoạn thơ cuối này sử dụng bút pháp lãng mạn để nhấn mạnh vẻ đẹp tinh thần hi sinh vì lí tưởng mang màu sắc lãng mạn của đoàn quân Tây Tiến. Vẻ đẹp chân dung của một tập thể anh hùng tiêu biểu cho một thời kì lịch sử bi tráng được khắc họa bởi bút pháp tài hoa sẽ còn sống mãi trong lòng người đọc. Đoạn thơ cũng bộc lộ tình đồng chí, đồng đội thắm thiết của Quang Dũng. Từ sự kết hợp một cách hài hòa giữa cái nhìn hiện thực với cảm hứng lãng mạn, Quang Dũng đã dựng lên bức chân dung, một bức tượng đài người lính cách mạng vừa chân thực vừa có sức khái quát, tiêu biểu cho vẻ đẹp sức mạnh dân tộc ta trong thời đại mới, thời đại cả dân tộc đứng lên làm cuộc kháng chiến vệ quốc thần kỳ chống thực dân Pháp.
Đó là bức tượng đài được kết tinh từ âm hưởng bi tráng của cuộc kháng chiến ấy. Đó là bức tượng đài được khắc tạc bằng cả tình yêu của Quang Dũng đối với những người đồng đội, đối với đất nước của mình. Vì thế từ bức tượng đài đã vút lên khúc hát ngợi ca của nhà thơ cũng như của cả đất nước về những người con anh hùng ấy.
Bài văn mẫu số 4:
Một bản nhạc hay là một bản nhạc không chỉ đoạn điệp khúc hay đoạn mở đầu hay mà đoạn cuối cũng phải hay, một tác phẩm văn học hay là một tác phẩm không chỉ hay phần mở đầu, phần nội dung và phần kết thúc cũng mang tính gợi mở hay hướng người đọc tưởng tượng đến một viễn cảnh nọ. Bài thơ Tây Tiến của nhà thơ Quang Dũng có những đoạn nói về những cuộc hành quân gian khổ, những đêm liên hoan văn nghệ hay bức tượng đài người lính Tây Tiến rất ý nghĩa, rất hay. Thế nhưng lại có rất ít người biết rằng bốn câu thơ cuối bài thơ cũng rất đáng được chú ý. Bởi đây là một đoạn thơ thể hiện được tấm lòng của nhà thơ dành cho Tây Tiến.
Hai câu thơ đầu thể hiện nỗi lòng của nhà thơ đối với đồng đội, những người còn sống và những người đã ngã xuống:
Tây tiến người đi không hẹn ước
Đường lên thăm thẳm một chia phôi
Những người lính cùng là những người tri thức nhưng trước khi gia nhập đoàn binh Tây Tiến họ không hề biết nhau. Họ đều là những người xa lạ, họ không hẹn nhau tòng quân đi giết giặc, cũng chẳng hẹn nhau đi lính là sẽ có ngày trở về. Đoàn quân Tây Tiến chính là nơi gắn kết họ lại thành một gia đình, thành những anh em gắn bó khăng khít. Quay trở về thực tại, Quang Dũng một mình đối mặt với nỗi nhớ thương đồng đối, đối mặt với những sự hi sinh của đồng đội mình nơi biên cương cửa ải. Nhà thơ càng cảm thấy nhớ, càng cảm thấy yêu quý đơn vị cũ của mình. Những người lính trong bài thơ Đồng chí của Chính Hữu cũng có một nỗi niềm như người lính Tây Tiến, từ những người xa lạ người lính Việt Nam gắn kết với nhau như anh em:
Tôi với anh đôi người xa lạ
Từ phương trời chẳng hẹn quen nhau”
Đường đi của Tây Tiến càng đi là càng chia phôi, giữa cái ác liệt của chiến tranh, giữa sự tàn ác của lũ giặc khốn nạn họ không xác định sự chia phôi vừa lớn, vừa thăm thẳm như ngàn thước của núi cao kia. Những người đồng đội của Quang Dũng đã đi và không hẹn ngày trở lại.
Trước thực tế hiện tại, xuất phát từ tình đồng chí đồng đội, từ tình quân dân keo sơn, từ những kỉ niệm và nỗi nhớ nhà thơ Quang Dũng khẳng định tâm hồn của mình luôn gắn bó với Sầm Nứa:
Ai lên Tây tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi.
“ai” là đại từ chỉ nhà thơ hay chỉ người lính Tây Tiến, nó không được xác định. Có lẽ nhà thơ cố tình nói như thế để thay mặt cho tất cả những người lính trong đoàn quân Tây Tiến dù còn sống hay đã chết đều trở về Sầm Nưa. Họ không sinh ra ở mảnh đất biên cương heo hút, gian nan ấy nhưng họ lại nguyện gắn bó tâm hồn mình với nó. Bởi nơi này chất chứa biết bao nhiêu kỉ niệm của Tây Tiến, cũng ở nơi đó biết bao nhiêu nấm mồ của những người anh hùng Tây Tiến “dãi dầu” cuộc đời mà nằm lại.
Đúng như nhà thơ Chế Lan Viên đã viết: “Khi ta ở chỉ là nơi đất ở/ Khi ta đi đất bỗng hóa tâm hồn”. Nhà thơ Quang Dũng và những người lính Tây Tiến không sinh ra ở mảnh đất biên cương Sầm Nứa nhưng những kỉ niệm họ có ở đó, thời gian hoạt động ở dẫu là gian nan vất vả nhưng khi qua rồi nó in dấu trong lòng họ sâu đậm. Đoạn thơ thể hiện rõ được tâm tình của nhà thơ dành cho mảnh đất và con người nơi biên cương cửa ải.
Bài văn mẫu số 5:
Bài thơ “Tây Tiến” là một trong những bài thơ đặc sắc nhất của Quang Dũng mà người đọc ấn tượng nhất. Bài thơ viết năm 1948. Cảm xúc bao trùm toàn bộ bài thơ là một nỗi nhớ. Qua nỗi nhớ ấy, hình ảnh núi rừng Tây Bắc hùng vĩ hiểm trở và dữ dội hiện lên như một bức tranh hoành tráng. Và trong bài thơ, ông cũng không quên lột tả trần trụi những gian khổ hi sinh của người lính Tây Tiến. Chỉ có điều nó thể hiện bằng một ngòi bút lãng mạn. Qua cái nhìn của nhà thơ, cái bi bỗng trở thành cái hùng tráng. Khổ cuối bài thơ cũng rất đặc sắc, gói gọn tình cảm của nhà thơ vào những câu chữ:
“Tây Tiến người đi không hẹn ước
Đường lên thăm thẳm một chia phôi
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi”
Thật vậy, đoàn binh Tây Tiến mang trên mình sứ mệnh bảo vệ quê hương tổ quốc. Họ luôn dốc toàn bộ sức lực của mình. Họ hàng ngày vẫn phải chiến đấu ác liệt với kẻ thù nguy hiểm, họ còn phải quật cường trước thiên nhiên hiểm trở với những căn bệnh sốt rét, đói nhưng họ vẫn oai nghiêm hùng dũng vượt lên trên tất cả. Họ là bức tượng cho tinh thần yêu nước vĩ đại, quyết chiến quyết thắng. Trước khi lên đường tham gia chiến đấu, họ chỉ là những cô cậu sinh viên Hà thành với tuổi đời còn rất trẻ, họ có hoài bão ước mơ. Khi tổ quốc gọi, họ sẵn sàng bỏ lại sau lưng tất cả lên đường cầm súng chiến đấu với tinh thần quả cảm. Họ biết ranh giới giữa sự sống và cái chết mong manh như sợi chỉ có thể biến mất bất cứ lúc nào. Họ lên đường chiến đấu, ra đi không hẹn ngày trở về. Họ trao mạng sống của mình cho Tổ quốc - nơi đã sinh ra họ.
Ở nơi rừng thiêng nước độc, mỗi bước chân hành quân của họ đều rất khó khăn, nhiều gian truân. Họ vẫn đi, họ vượt qua dốc đèo hiểm trở, họ bỏ lại những bản làng khuất dần sau rặng tre: “Đường lên thăm thẳm một chia phôi”. Do hoàn cảnh chiến đấu khắc nghiệt có bao nhiêu gian khổ thiếu thốn cả về vật chất lẫn tinh thần nên hành trình chiến đấu của họ dai dẳng không có hồi kết. Vì vậy một tia hi vọng trở về là rất mong manh, ngày càng xa xôi khó nắm bắt được trong vô vọng. Trong bối cảnh lịch sử là cuộc chiến tranh kháng chiến chống Pháp, với sự đơn sơ về vũ khí của ta, sự nghèo nàn về vật chất khác nào lấy trứng chọi với đá. Vì vậy sự hi sinh là không thể tránh khỏi. Họ phải vì nước quên thân vì dân phục vụ, hi sinh tính mạng mình để đổi lấy độc lập tự do cho dân tộc. Bao nhiêu thế hệ trẻ cầm súng lên đường chiến đấu chỉ với khẩu hiệu giản dị “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”.
Họ cống hiến, họ hi sinh thầm lặng cho Tổ quốc không một lời kêu ca hay phàn nàn mà đó là bổn phận, là trách nhiệm nghĩa vụ của một người công dân yêu nước nồng nàn, có ý chí chiến đấu tinh thần thép cao cả. Hai câu thơ đã lột tả ý chí chiến đấu quật cường ấy, làm nổi bật lên phẩm chất yêu nước anh hùng của họ.Với nghệ thuật dùng từ “không hẹn ước”, “chia phôi” kết hợp với giọng điệu chậm rãi nhẹ nhàng, Quang Dũng như lần nữa khắc họa sự hi sinh thầm lặng mà cao cả của đoàn quân Tây Tiến. Nỗi nhớ trào dâng trong lòng nhà thơ để ông tiếp tục chắp bút tô vẽ nên:
“Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi”
Có thể thấy “mùa xuân” có nhiều nghĩa. Đó là mùa đẹp nhất trong năm. Đây cũng là thời điểm thành lập đoàn quân Tây Tiến. Mùa xuân còn là mùa của đất nước. Nó cũng ẩn dụ cho tuổi trẻ của người chiến sĩ đã một đi không trở lại. Họ mang theo sức trẻ nhiệt huyết cháy bỏng của mình lên đường hành quân chiến đấu. Tuy nhiên, họ đã hi sinh nhưng hồn của họ không về quê hương vội mà vẫn còn lượn lờ sang nước bạn hợp lực tác chiến với quân dân Lào chống Pháp. Họ quyết tâm thực hiện lí tưởng đến cùng nên kể cả khi họ đã ngã xuống nhưng hồn của họ vẫn chiến đấu tới cùng, vẫn đi cùng đồng đội, sống trong lòng họ mãi mãi. Đó cũng mang tính sử thi cao. Cả tuổi trẻ của họ chỉ với mục tiêu chiến đấu bảo vệ tổ quốc. Họ vẫn rong ruổi chiến đấu trên suốt cuộc hành trình khó khăn ấy của mình. Phải chăng tình yêu quê hương đất nước của họ sâu đậm thấm nhuần vào máu thịt đến nhường nào mới có thể bất diệt như vậy?
Tóm lại, với giọng điệu trữ tình đằm thắm da diết, bốn câu thơ cuối được viết như những dòng chữ tạc trên bia mộ của những người chiến sĩ gan dạ Tây Tiến. Đó là hình ảnh những người chiến sĩ dũng cảm, nhiệt huyết, đến lúc ngã xuống vẫn giữ trọn lời thề với quê hương tổ quốc. Họ là những con người đau thương nhưng không bi lụy, tràn đầy niềm tin và tinh thần sôi sục nhiệt huyết căng tràn sức sống của tuổi trẻ. Tây Tiến xứng đáng là bài thơ tuyệt vời của Quang Dũng góp nhặt để lại cho thế hệ sau.
Tham khảo thêm: