Từ lâu mùa thu đã trở thành một chất liệu thi ca được nhiều nhà thơ sử dụng để tạo viết nên những cảm xúc về cảnh đẹp thiên nhiên khi đất trời vào thu cũng như tâm trạng của nhân vật trữ tình khi mùa thu đến. Mùa trong mỗi tác phẩm lại khoác lên mình những chiếc áo đẹp khác nhau theo cảm nhận của thi nhân. Mời các bạn cùng cảm nhận vẻ đẹp mùa thu qua những bài phân tích dưới đây.
Lưu Trọng Lư là một gương mặt nhà thơ tiêu biểu, đồng thời cũng là người khởi xướng cho phong trào thơ Mới ở Việt Nam, thơ của Lưu Trọng Lư không có sự chau chuốt về ngôn từ, cũng không mượt mà về câu chữ nhưng lại có cái chân thực trong cảm xúc. Ông viết thơ dường như viết ra những dòng cảm xúc, tâm sự, cảm nhận thật nhất của chính mình, cũng có lẽ vì vậy mà nhiều người không đánh giá cao thơ của Lưu Trọng Lư, nhưng nếu cảm nhận được những cái mà ông viết thì lại có một cái đánh giá khác. Một trong những bài thơ được đánh giá là hay nhất của Lưu Trọng Lư, đó chính là bài thơ “Tiếng thu”.
Đánh giá về bài thơ “Tiếng thu”, nhà thơ Trần Đăng Khoa cũng đã từng nhận định đây không chỉ là bài thơ hay nhất trong đời thơ của Lưu Trọng Lư, mà còn là bài thơ “thơ” nhất của thi ca Việt Nam hiện đại. Như vậy, qua cách đánh giá này, ta cũng phần nào hiểu được vị trí và vai trò của “Tiếng thu” trong thơ ca Việt Nam. Qua bài thơ “Tiếng thu”, Lưu Trọng Lư đã mượn không gian, cảnh vật đặc trưng của mùa thu để thể hiện bức tranh tâm trạng đầy chân thực và sống động, đó chính là tâm trạng u buồn, có chút da diết, khắc khoải cảm xúc của nhân vật trữ tình:
“Em không nghe mùa thu
Dưới trăng mờ thổn thức”
Nhân vật trữ tình ở đây không trực tiếp xuất hiện mà chỉ thể hiện qua những lời nói đầy da diết, hướng đến đối tượng “em”. Vì vậy, “em” ở đây có thể hiểu là người thương, người mà nhân vật trữ tình hướng đến trong mọi lời tâm sự. “Em không nghe mùa thu”, câu thơ thật da diết nhưng sao cũng thật buồn, thật khắc khoải, em không nghe được tiếng của mùa thu hay em không thể nghe được? Dù hiểu thế nào ta cũng thấy được khoảng cách trong cách cảm nhận của nhân vật trữ tình và “em”. Mùa thu thường đi vào trong thơ văn với cảm xúc buồn thương bởi sự chia phôi, nhạt nhòa như chính cảnh sắc mùa thu khắc tạc vào lòng người.
Trong không gian mùa thu được gợi mở một cách gián tiếp ấy, hình ảnh ánh trăng cũng hiện ra thật đặc biệt, nó vẫn đẹp như vậy nhưng không gợi niềm hân hoan, vui sướng khi thưởng ngắm. Mà nó lại đẹp lại bởi chính vẻ u sầu “Dưới trăng mờ thổn thức”, câu thơ gợi cho chúng ta liên tưởng đến không gian của một đêm trăng mùa thu, và cũng như chính cái mùa của sự phôi phai thì ánh trăng cũng nồng đượm nỗi buồn. Hay chính tâm trạng buồn của nhân vật trữ tình đã nhuộm cho ánh trăng một vẻ u sầu như vậy. Nhà thơ đã sử dụng từ “thổn thức” để miêu tả ánh trăng, như vậy Lưu Trọng Lư đã xem vầng trăng như là một hiện thân của tâm trạng, tình cảm của nhân vật trữ tình.
Nó không còn là một vật thể vô tri vô giác của tự nhiên nữa mà đã chan chứa những xúc cảm của một con người, đặc biệt là một con người đang yêu, và phải chịu đựng nỗi đau của sự xa cách đối với người mà mình yêu. Ánh trăng mờ gợi cho ta liên tưởng đến một đôi mắt long lanh, ngấn lệ của một con người đa tình, đang nhớ nhung trong đau khổ, mong chờ. Và chính những giọt lệ trực trào ấy đã khiến cho mọi thứ trở nên nhạt nhòa, không thể nhìn rõ nét, chân thực. Hai câu thơ đầu gợi cho ta liên tưởng đến một đôi lứa yêu nhau, nhưng dường như họ bị ngăn cách, không thể gặp nhau. Vì vậy mà dù làm gì thì cũng nhớ, cũng mong đến đối phương.
“Em không nghe rạo rực
Hình ảnh kẻ chinh phu
Trong lòng người chinh phụ”
Theo dõi dòng tâm sự của nhân vật trữ tình, ta cảm nhận được sự cô độc trong tâm hồn, vì dù có đặt ra những câu hỏi, những sự trách móc đầy tình cảm, nhưng dường như cũng chỉ là tự độc thoại với chính mình. Vì không nghe âm thanh thu về, nên em cũng không cảm nhận được cảm giác rạo rực, không cảm nhận được sự da diết trong cảm xúc, trong tình cảm “Em không nghe rạo rực”. “Rạo rực” chính là sự bồi hồi, đắm say của con người trước những niềm vui, niềm hạnh phúc. Và sự rạo rực này được nhà thơ Lưu Trọng Lư liên tưởng đến hình ảnh của người chinh phụ và người chinh phụ. Giữa họ gắn kết bởi tình cảm vợ chồng gần gũi, tha thiết. Nhưng, cũng chính sự tha thiết, nồng thắm ấy mà khi chia li không tránh được cảm giác đau đớn, mất mát.
Đó chính là hình ảnh mong chờ, khắc khoải của người chinh phụ khi mong ngóng từng chút tin tức về người chồng của mình nơi xa trường. Nỗi nhớ thương ấy càng bị đẩy lên cao trào khi biết nơi người chồng ra đi, đó chính là chiến trường xa xôi, đầy hiểm nguy mà bất kì lúc nào cũng có thể hi sinh mạng sống. Hiểu như thế, ta có thể thấy sự rạo rực mà nhà thơ Lưu Trọng lư nói đến ở đây không chỉ là sự cháy bỏng của tình cảm mà còn là sự đau đớn, lo lắng sự cách li có thể bất chợt ập đến. Hình ảnh người chinh phụ và chinh phụ trong câu thơ, gợi cho chúng ta liên tưởng đến hình ảnh người chinh phu và chinh phụ trong bài thơ “Chinh phụ ngâm khúc” của nữ sĩ Đoàn Thị Điểm. Ở đó thì hai người bị chia cắt tình yêu đôi lứa, mỗi người mỗi ngả, người ở hậu phương, kẻ ở tiền tuyến. Mong ngóng tin tức của người chồng nên người chinh phụ không một phút giây thôi mong ngóng, trông chờ.
“Em không nghe rừng thu
Lá thu kêu xào xạc”
Mùa thu khiến cho những chiếc lá trên tán cây xanh trở nên héo tàn và bay theo làn gió, chỉ để lại những cành cây khẳng khiu. Đây là một hiện tượng tự nhiên của đất trời, nhưng khi đi vào những trang thơ văn thì nó lại trở thành biểu tượng của sự phôi pha, tàn úa, biểu tượng của sự chia li. “Em không nghe rừng thu”, câu thơ vẫn là cấu trúc “Em không nghe…” được lặp đi lặp lại, thể hiện sự bộn bề của cảm xúc của nhân vật trữ tình. “Rừng” là nơi sinh trưởng và phát triển của cây xanh. Nhưng đồng thời nó cũng là thế giới tình cảm phong phú của nhân vật trữ tình, nơi mà những tình cảm yêu thương, mong nhớ bén rễ và phát triển tươi tốt. Nhưng vào mùa thu, những cây xanh đã rụng lá, giống như thế giới tâm hồn của con người khi thu đến, đó chính là những cảm giác mất mát không tên của cảm xúc, làm khắc khoải, xao động mạnh mẽ trong tâm hồn.
“Lá thu kêu xào xạc” ta có thể hiểu đây là hình ảnh tả thực, đó là những chiếc lá rụng, khi có những cơn gió thổi qua tạo ra âm thanh xào xạc. Nhưng đặt nó trong mối quan hệ với tâm trạng của nhân vật trữ tình thì ta lại có những cảm nhận khác. Tiếng xào xạc của tiếng lá đồng thời cũng là tiếng lòng đầy ngổn ngang của nhân vật trữ tình, mà bất cứ tác động gì, dù là nhỏ nhất cũng khiến cho tâm hồn trở nên thổn thức, đau đớn. Tiếp đó là hai câu thơ cuối, nhà thơ đã sử dụng những hình ảnh ngỡ như chẳng có chút liên quan đến mạch nguồn cảm xúc, nhưng đây chính là cái chân thực trong cảm nhận, liên tưởng của nhà thơ, thể hiện những ý niệm đầy độc đáo:
“Con nai vàng ngơ ngác
Đạp trên lá vàng khô”
Đang viết về hình ảnh của khu rừng mùa thu, về những chiếc lá khô bay xào xạc, hình ảnh thơ đột ngột chuyển qua hình ảnh chú nai vàng ngơ ngác “Con nai vàng ngơ ngác”. Người đọc cũng không khỏi thắc mắc, tự hỏi rằng liệu hình ảnh con nai có liên kết, mối liên hệ gì đặc biệt gì đối với toàn bộ bài thơ hay không. Hay đây chỉ là sự chọn lựa đầy vô tình của Lưu Trọng Lư. Nhưng nếu nhìn nhận ở một khía cạnh khác, ta lại có cảm giác hoàn toàn khác biệt. Con nai thường gợi liên tưởng đến sự ngây thơ, trong sáng. Và tình yêu cũng vậy, dù có bao nhiêu đau khổ thì nó cũng mãi đẹp như vậy, trong sáng như vậy. Câu thơ “Đạp trên lá vàng khô” lại thể hiện được sự kiên định cùng niềm tin bất diệt của nhân vật trữ tình của nhân vật trữ tình. Bởi dù có những bộn bề, đau đớn, mất mát thì chỉ cần còn tồn tại một thứ gọi là tình yêu thì có thể vượt qua mọi giới hạn, thử thách.
Như vậy, bài thơ “Tiếng thu” của Lưu Trọng Lư vừa gợi mở cho người đọc một bức tranh mùa thu đẹp nhưng cũng mang đến cảm giác man mác buồn. Đồng thời, qua bức tranh ngoại cảnh lại soi sáng được bức tranh tâm hồn của nhân vật trữ tình, đó là một con người đa tình, luôn đau đáu trong lòng những nỗi nhớ, những khắc khoải, trăn trở về tình yêu. Và tình yêu đó dù có những xa cách, có những bất đồng về cảm nhận nhưng vượt lên tất cả, tình yêu ấy được Lưu Trọng Lư khẳng định với tất cả sự thiêng liêng, to lớn của nó.
Thu là một mùa đẹp và dịu dàng, là nàng thơ của biết bao hồn thơ Việt. Tiếng Thu của Lưu Trọng Lư là một bài thơ vô cùng đặc sắc từ hình ảnh đến nghệ thuật được tác giả sử dụng. Những nét đẹp ấy được nhà nghiên cứu văn học Chu Văn Sơn phân tích rất kỹ càng qua bài Bản hòa âm ngôn từ. Đúng vậy, với Chu Văn Sơn, bài thơ không chỉ đơn thuần là một bức tranh nữa, nó chính là một bản hoà âm của thiên nhiên tuyệt diệu.
Chu Văn Sơn là một nhà nghiên cứu văn học hiện đại của Việt Nam, là một nhà phê bình văn học xuất sắc. Các tác phẩm của ông đều có lời văn nhẹ nhàng, ý tứ, khai thác được những nghệ thuật và nội dung then chốt tác giả muốn thể hiện. Bài Bản hòa âm ngôn từ trong Tiếng thu của Lưu Trọng Lư được in trong tập thơ Thơ – điệu hồn và cấu trúc. Bài văn là cảm nhận của Chu Văn Sơn về nét đẹp của mùa thu trong bài Tiếng Thu.
Ngay mở đầu, Chu Văn Sơn đã khẳng định rằng “Thu là thơ của đất trời, thơ là thu của lòng người”. Và cái hồn thư, hồn thơ ấy được Chu Văn An khẳng định đồng vọng thành bài Tiếng Thu. Tác giả cảm nhận rõ được vẻ đẹp mà thu mà Lưu Trọng Lư muốn thể hiện, cũng liên hệ cái đẹp ấy như một điều tất nhiên tại hiện thực.
Mùa thu ấy mang vẻ đẹp cổ điển, cái mà Chu Văn Sơn nhận định là cái “an tĩnh” của thi nhân xưa. Chu Văn Sơn trước tiên nêu về những đặc sắc của dòng thơ, sự sống tiềm tàng trong từng con chữ. Đó là huyền diệu, là những nội tâm cháy bỏng trong tâm hồn người nghệ sĩ.
Tiếng Thu theo cảm nhận của Chu Văn Sơn cũng là một âm thanh, nhưng lại không riêng rẽ và kết hợp giữa cái tiếng của thiên nhiên và hơi thở của con người. Ông vô cùng tán thưởng tiếng thu mà Lưu Trọng Lư thể hiện. Sự cộng hưởng từ những điều bình dị bỗng trở thành những âm điệu tuyệt vời.
Chu Văn Sơn phân tích rất kỹ từng chi tiết nhỏ, từng câu hỏi trong bài Tiếng Thu. Ông tập trung nói về âm điệu, thứ khiến người học tập trung, mà theo ông, đó chính là chân dung, là phần hồn của bài thơ.
Chu Văn Sơn đưa ra nhận định, ông không quan trọng cái vẻ bề ngoài của một bài thơ. Thứ khiến ông hay tất cả những người đọc khác cảm nhận và gây sự thương nhớ chính là cái hồn được thể hiện trong đó. Chu Văn Sơn cũng đề cao kết cấu và việc chia thành 3 phần nội dung nhỏ trong bài.
Ông thấy được sự quyến rũ của bài thơ thông qua cả việc gieo vần, có nhịp điệu chặt chẽ. Chúng giúp cho việc bài văn đẩy lên cao trào dễ dàng và nhanh hơn. Có thể đối vối những người cảm thơ, việc vần điệu tạo thành một “bản nhạc” như vậy là không dễ. Theo đánh giá của Chu Văn Sơn, Lưu Trọng Lư đã hoàn thành tốt công việc này.
Cái tình của nhân vật trong bài thơ cũng được Chu Văn Sơn đánh giá rất cao. Từ cảnh vật tới tâm trạng, Tiếng thu đã cho người đọc và cả người bình những cung bậc cảm xúc tốt đẹp. Chu Văn Sơn dường như đã hòa vào trong tiết thu ấy, trở thành một nét bút trong bức tranh thu. Bởi vậy, ông mới có thể phân tích và thấu hiểu được nhân vật rõ đến thế.
Chu Văn Sơn so sánh với tiếng thu khác của Nguyễn Đình Thi, cùng thấy được vẻ đẹp của thiên nhiên nhưng lại chẳng hề giống nhau, chẳng thể thay thế được cho nhau. Những tiết tấu, vần trắc vần bằng cũng được Chu Văn Sơn đem ra để minh chứng cho việc Tiếng thu thực ra có nhạc điệu. Chúng cũng có những sự đặc biệt và hài hòa tạo thành một bản hòa âm tuyệt mỹ.
Với cách lập luận chặt chẽ, ngôn từ sâu sắc và cái nhìn nhận độc đáo, Chu Văn Sơn đã cho người đọc thấy được vẻ đẹp của Tiếng Thu sau lớp áo. Những âm sắc mà hầu như chẳng ai để ý cũng được nhà phê bình nghiêm túc đánh giá. Đó là một bản độc tấu của những con chữ mà như theo tên bài, đó chính là một bản hòa âm ngôn từ. Cũng theo Chu Văn Sơn, khách quan ông đánh giá Tiếng Thu là một bản hòa âm tuyệt đẹp.
Sự đẹp đẽ của một bài thơ không chỉ để người ta đọc, mà còn cần sự cảm nhận, sự tận hưởng. Những câu từ trong Bản hòa âm ngôn từ chẳng kém một bài luận đầy chặt chẽ, “mổ xẻ” hết những vẻ đẹp của mùa thu mà chúng ta chưa để ý hết. Chất nghệ sĩ trong người của Chu Văn Sơn cũng chẳng thể kém, bởi vậy mới có thể hòa trong những giai điệu mùa thu để tìm kiếm nét đẹp được ẩn giấu!
Lưu Trọng Lư là nhà thơ tiên phong của phong trào Thơ mới. Nhận định về nghệ thuật thơ ông, nhà phê bình thiên tài Hoài Thanh đã có những nhận xét thật chuẩn xác: "Tôi biết có kẻ trách Lư cẩu thả, lười biếng, không biết chọn chữ, không chịu khó gọt rũa câu thơ. Nhưng Lư có làm thơ đâu Lư chỉ để thơ tràn trên mặt giấy”. Ông đã để lại một số lượng tác phẩm có tầm ảnh hưởng lớn trong đó bài thơ “Tiếng thu” là một bài thơ tiêu biểu nhất. Bài thơ được Nguyễn Khoa Điềm coi là một trong những bài thơ thơ nhất Việt Nam . Nhận định này còn gây khá nhiều tranh cãi nhưng đối với riêng tôi thì nó là một nhận định khá chính xác. Bởi khi đọc “Tiếng thơ” ta thấy được đây chính là một kiệt tác đó chính là một âm thanh day dứt của thời xa xưa và còn vọng mãi đến bây giờ.
Mùa thu dường như gợi rất nhiều vấn vương trong thơ ca của những người thi sĩ. Đối vớ Lưu Trọng Lư cũng như thế, mùa thu cũng khiến cho ông có rất nhiều cảm xúc. Tác giả đã chọn cho mình một góc riêng để ngắm thu để mơ mẩn vè thu để rồi đứng ngồi không yên khi cảm xúc ùa về và để rồi viết lên những trang thu tuyệt diệu.
Em không nghe mùa thu
Dưới trăng mờ thổn thức
Em không nghe rạo rực
Hai câu thơ mở ra cho chúng ta cả một trời thương nhơ vấn vương. Cả bài thơ như một cuộc đối thoại giữa chàng trai và cô gái giữa người đang ngoài chiến trận với người đang mòn mỏi từng ngày ở nhà ngóng tin. Thật là tức tối biết bao khi một người đang thổn thức dang rạo rực đang bừng cháy còn một người thì không nghe thấy gì. Hoặc em cũng đang nghe thấy nhưng anh giả vờ như em không nghe thấy mà hỏi vậy. Em mà tác giả đang gọi là ai?một người đang buồn rầu ngóng tin hay một người tưởng tượng trong tâm trí nhà thơ hay đó chính là nhà thơ đang nói chuyện với chính lòng mình. Ở đây ta đặt ra một câu hỏi mà rất khó trả lời được. Nhưng là ai không quan trọng quan trọng chính là người đó đang nghĩ gì đang có tâm sự ra sao trước cảnh đời đang trôi?. Mùa thu trăng mờ, phải trăng ánh trăng chính là một hình ảnh mà các thi nhân rất thích sử dụng khi nói về thu hay khi người ngắm trăng đang mang nhiều tấm trạng. Một mình đứng ngắm trăng rất nhiều tâm sự trong lòng không thể xan sẻ cùng ai, nhưng dường như dưới ánh trăng vằng vặc kia như đang hiểu thấu nỗi lòng người thi nhân. Như vậy chủ đề mùa thu đã được nhà thơ diễn tả trước hết bằng từ ngữ. Xuất hiện xuyên suốt bài thơ là một từ nghe xuất hiện cả ba lần trong câu thơ đầu tác phẩm. Chúng ta nghe lời thổn thức của mùa thu đã được nhân cách hóa, nghe tiếng lòng rạo rực trong rừng vắng của người phụ nữ đi đánh trận nghe tiếng lá thu rơi. Bên cạnh đó tiếng thu còn được tác giả diễn tả bằng âm thanh “em không nghe”. Hai câu thơ tiếp theo cho người đọc hiểu rõ hơn về nhân vật trữ tình trong bào thơ.
“Hình ảnh người chinh phụ
Trong lòng người cô phụ”
Hình ảnh người lính ra đi lên đường chiến trận là một hình ảnh có lẽ không thể nào quên được trong tâm trí những người tới đưa tiễn chồng lên chiến trường . Hình ảnh ấy cứ khuất dần khuất dần rồi mất hút hẳn theo mù thu theo dáng hình người lính. Đó là tâm sự chủ yêu của những người cô phụ trong thời kì này.
Khổ thơ cuối cùng khép lại bài thơ nhưng nó lại mang một âm hưởng lưu luyến bởi tiếng nhạc khiến ta không thôi bồi hồi.
“em không nghe rừng thu
Lá thu rơi xao xác
Con nai vàng ngơ ngác
Đạp trên lá vàng khô?”
Cách gieo vần liền kết hợp với các từ láy đặt ở cuối câu đã khiến liên kết các câu trong khổ thơ cuối trở nên đều đặn. Khi hình ảnh con nai vàng xuất hiện ta đã nghe được gì khi hình ảnh con nai vàng xuất hiện. Phải chăng ta đã nghe thất tiến lá vàng vỡ vụn dưới bước chân của những con nai vàng ngơ ngác. Tiếng thơ đích thực trong thơ của Lưu Trọng Lư là như thế đó ta không nghe thấy được thu bằng tai mà nghe thấy thu qua trí tưởng tượng nghe vang lên trong tâm hồn. Thu thanh của Lưu Trọng Lư chính là một vô thanh . Đó là cái vô thanh thắng hữu thanh . Có người cho rằng “Thực tế Việt Nam làm gì có khu rừng vàng”. Đấy là rừng châu Âu. Rừng Việt Nam là rừng luốm nhuốm. Mùa thu Việt Nam đúng như Nguyễn Du mô tả trong Kiều: "Rừng thu từng biếc chen hồng". Và con nai Việt Nam cũng nhanh nhẹn lắm, tinh ranh lắm, nó đâu có ngơ ngác! Ơ hay, Lưu Trọng Lư có nhìn thiên nhiên bằng con mắt thịt đâu! Lại phải mời Hoài Thanh về làm luật sư bào chữa cho ông thôi: "Trong thơ Lư, nếu có cả chim kêu, hoa nở, ta cũng chớ tin. Hay ta hãy tin rằng tiếng ấy, màu kia chỉ có ở trong mộng. Mộng! Đó mới là quê hương của Lư. Thế giới thực của ta với bao nhiêu thanh sắc huy hoàng, Lư không nghe thấy gì đâu. Sống ở thế kỷ 20, ngày ngày nện gót trên các con đường Hà Nội mà người cứ mơ màng thấy mình gò ngựa ở những chốn xa xăm nào".
Tác phẩm đã để lại nhiều suy nghĩ cho người đọc . Đó là một con mắt nhì đòi nhìn thơ khá khác biệt của Lưu Trọng Lư. Tác phẩm đã khiến cho chúng ta thấy được mùa thu mơ màng bất tận của người thi sĩ đồng thời cũng cho chúng ta thấy được nỗi lòng của người cô phụ đối với người chồng đang chinh chiến nơi xa.
Trong thơ văn xưa và nay, hình ảnh mùa thu thường xuất hiện trong mạch nguồn cảm xúc của nhiều các nhà văn, nhà thơ. Mùa thu gợi ra cho con người những cảm xúc buồn man mác, gợi ra sự chia phôi, mất mát. Vốn là một đề tài đã quá quen thuộc, lại được chắp bút thành công bởi rất nhiều nhà văn, nhà thơ nổi tiếng. Nhưng, không để cho cái quen thuộc, thành công ấy cản bước, cũng bắt nguồn cảm xúc từ mùa thu, nhưng nhà thơ Lưu Trọng Lư đã không đi vào những khía cạnh quen thuộc mà thi nhân xưa đã khai thác, ông lựa chọn cho mình một phương thức biểu đạt mới, một cách cảm nhận mới lạ đầy tinh tế. Và sự thành công, mới lạ này được thể hiện rõ nét qua bài thơ “Tiếng thu”.
Nhà thơ Lưu Trọng Lư vốn là một trong những cây bút tiên phong cho phong trào thơ Mới ở Việt Nam. Thơ của ông không cầu kì trau chuốt, mà thơ của Lưu Trọng Lư hay bởi chính cái chất liệu bình dị mà nhà thơ xây dựng lên nó.
Hiện lên trong thơ Lưu Trọng Lư thường là những hình ảnh gần gũi, thân quen do đó nó bình dị mà đầy sức gợi, đơn sơ mà đầy tính tạo hình. Bài thơ “Tiếng thu” vừa là một bức tranh mùa thu đầy thi vị, vừa là bức tranh tâm trạng của nhân vật trữ tình tha thiết, xúc động lòng người. Ngay ở phần mở đầu bài thơ, nhân vật trữ tình xuất hiện cùng với những lời tâm sự chân thành, đầy da diết:
“Em không nghe mùa thu
Dưới trăng mờ thổn thức?”
Câu thơ như vừa như lời tự hỏi, vừa như lời trách móc đầy tình cảm của nhân vật trữ tình đối với người mình yêu. Trong tình yêu, những đôi lứa yêu nhau thường mong muốn có những phút giây riêng tư, hạnh phúc bên nhau để cùng cảm nhận những dư vị tươi đẹp, chia sẻ những phút giây hạnh phúc khi đón nhận những đổi thay của cuộc sống.
Ở đây, mùa thu đến nhưng đôi lứa lại không ở bên nhau, mỗi người ở một nơi. Và chính khoảng cách địa lí đó đã vô tình tạo ra khoảng cách trong tâm hồn, vì xa cách mà chàng trai băn khoăn trăn trở trách móc “Em không nghe mùa thu”.
Có lẽ trong cảm nhận của chàng trai giờ đây tràn ngập cảm xúc, tư vị của tình yêu dành cho cô gái. Nhưng vẫn băn khoăn rồi đi đến khẳng định, cô gái không “nghe” được, cũng tức là không cách nào cảm nhận được tấm chân tình của mình.
Mùa thu thường gợi cho người ta cảm nhận về nỗi buồn, những nỗi buồn man mác bởi chính sự nhạt nhòa, phôi pha của cảnh vật. Và trong không gian ấy thì đối với những đôi lứa yêu nhau nhưng không thể ở bên nhau lại càng thêm khắc khoải.
“Dưới trăng mờ thổn thức”, vì em không nghe thấy mùa thu nên em cũng không thể cảm nhận được ánh trăng mờ, điều đặc biệt là ánh trăng vô tri vô giác ấy được nhà thơ Lưu Trọng Lư khoác lên nó màu sắc của các giác quan, nên dưới ánh trăng mùa thu, hay nói đúng hơn là dưới sự cảm nhận của nhân vật trữ tình thì ánh trăng cũng đượm buồn “thổn thức”, đó là màu sắc ánh trăng hay cũng chính là màu sắc tâm trạng bi ai của nhân vật trữ tình ấy.
“Em không nghe rạo rực
Hình ảnh kẻ chinh phu
Trong lòng người cô phụ”
Tình cảm nồng nàn, đắm say, rạo rực vốn là những cảm xúc thuộc về tình yêu, và để có được những cảm xúc đấy thì có điều kiện tất yếu là những đôi lứa phải được ở gần nhau, ở cạnh nhau. Và trong bài thơ này, nhà thơ Lưu Trọng Lư đã nói đến cái rạo rực, tha thiết trong tâm hồn nhân vật trữ tình.
Nhưng cái đặc biệt là cái rạo rực ấy hoàn toàn đơn phương. Bởi cô gái không cảm nhận được, không nghe thấy “Em không nghe rạo rực”. Nhà thơ đã điệp lại cấu trúc “Em không biết” như diễn tả cái dạt dào trong cảm xúc. Và sự rạo rực này được nhà thơ gợi tả sinh động thông qua gợi nhắc đến cặp hình tượng người chinh phu và chinh phụ.
Thông qua cặp hình tượng này, người đọc dường như liên tưởng đến hoàn cảnh cách biệt của đôi phu phụ trong bài thơ “Chinh phụ ngâm” của nữ sĩ Đoàn Thị Điểm. Người chinh phu ở nơi chiến trường xa xôi, người chinh phụ thì mong ngóng, trông chờ tin tức của người chồng. Cái rạo rực ở đây chính là nỗi nhớ đến cháy bỏng cùng với nỗi thấp thỏm, khắc khoải không yên.
Vì nơi người chồng ra đi là nơi chiến trận, hiểm nguy luôn rình rập, tính mạng có thể bỏ ngỏ bất cứ lúc nào. Vì vậy tình yêu thương cùng tâm trạng lo lắng, mong chờ, tạo ra cảm giác rạo rực khôn nguôi. Ở đây nhà thơ Lưu Trọng Lư mượn cặp hình tượng này để nhấn mạnh nỗi nhớ của mình dành cho cô gái. Đó là tình cảm rạo rực, khắc khoải khôn nguôi.
“Em không nghe rừng thu
Lá thu kêu xào xạc”
Vẫn là điệp khúc “em không nghe”, được lặp lại đến lần thứ ba, gợi liên tưởng đến dòng tâm sự dạt dào như thác tràn ra trên mặt giấy. Ngay từ những câu thơ đầu, nhân vật trữ tình đã mặc định là cô gái không nghe thấy mọi sự đổi thay của trời đất, hay đúng hơn là những tâm sự triền miên, khắc khoải trong tâm trạng của mình.
Và không nghe không phải cô gái vô tình, không muốn nghe mà do hoàn cảnh cách li, nên cô gái không thể lắng nghe mà cũng không thể cảm nhận đến tận cùng cái dạt dào ấy. “Em không nghe rừng thu”, không gian được gợi mở ở đây chính là không gian rừng thu, nơi chứa đựng, sinh sôi của vạn vật. Đó cũng chính là hình ảnh ẩn dụ của thế giới tâm hồn của chàng trai.
Và trong rừng thu ấy, tiếng lá rơi rụng mang đến những âm thanh xào xạc. Nó gợi ra những nét tương đồng trong tâm trạng của nhân vật trữ tình. Và trong thế giới tâm hồn đầy phong phú, nhạy cảm ấy, tiếng lòng của chàng trai càng trở nên rõ nét hơn bao giờ hết.
Và những rung động, những âm thanh đầy hỗn loạn trong thế giới ấy là do cô gái, đối tượng tình ái của chàng trai ấy. Bởi không chỉ có yêu thương, không chỉ có cái rạo rực, da diết mà còn có chút giận hờn, trách móc…những tư vị đặc biệt chỉ có thể có khi tình yêu đích thực nảy nở, bám rễ trong tâm hồn.
Từ đầu đến cuối đều là những độc thoại của nhân vật trữ tình với chính mình, những câu nói hàm chứa sự giận hờn, trách móc ấy cũng chỉ đặt ra rồi tồn tại khắc khoải, trăn trở trong chính tâm hồn đầy nhạy cảm ấy. Cô gái không hề xuất hiện, cũng không thể xuất hiện, do đó đọc những dòng tâm sự của chàng trai dành cho cô gái, độc giả không khỏi bồi hồi, xúc động.
Tình yêu đó thật mãnh liệt, thật đẹp đẽ, trong sáng biết bao. Đẹp bởi nó đủ mạnh để chàng trai kiên định, đấu tranh để bảo vệ tình yêu ấy. Đẹp bởi dù có những tổn thương không mong muốn thì chàng trai vẫn theo đuổi đến cùng tình yêu của đời mình. Và lời tuyên ngôn ấy cũng thể hiện qua hai câu cuối của bài thơ:
“Con nai vàng ngơ ngác
Đạp trên lá vàng khô”
Ở hai câu thơ cuối này, người đọc bỗng thấy hoài nghi bởi sự xuất hiện không mấy liên quan của hình ảnh con nai vàng, bởi từ đầu chỉ có những sự vật gợi ra cái trống vắng của cảnh vật thì ở đây hình ảnh con nai xuất hiện bỗng làm cho bức tranh thơ trở nên sinh động, màu sắc hơn.
Cũng làm cho bức tranh tâm hồn những điểm sáng của hi vọng, bởi sự trong sáng, ngây thơ, ngơ ngác của con nai cũng chính là cái tươi mới, trong sáng của tình yêu chân chính. Vì vậy mà dù có bao trở ngại, có những cách ngăn thì tình yêu vẫn đủ lớn để vượt lên trên tất cả “Đạp trên lá vàng khô”.
Như vậy, bài thơ “Tiếng thu” của Lưu Trọng Lư, vừa là bức tranh mùa thu dù đẹp nhưng mang những nét đượm buồn; cũng vừa là bức tranh tâm trạng đầy sống động của nhân vật trữ tình. Và sự vận động của tâm trạng ấy cũng khiến người đọc không khỏi xúc động, bồi hồi. Từ những cách ngăn trong tình cảm thì dòng cảm xúc ấy vẫn dần lớn lên. Và khi đã đủ “chín” thì tình yêu ấy vươn lên mọi hoàn cảnh, trở ngại để trở thành bất tử.
Như một phút chợt dừng trong trường tình phiêu lưu của Lưu Trọng Lư, Tiếng thu dội lên âm thanh day dứt của một thời bơ vơ xa xưa. Va còn vọng mãi đến bao giờ?
Em không nghe mùa thu
Dưới trăng mờ thổn thức?
Em không nghe rạo rực
Hình ảnh người chinh phụ
Trong lòng người cô phụ?
Em không nghe rừng thu
Lá thu kêu xào xạc
Con nai vàng ngơ ngác
Đạp trên lá vàng khô.
Bằng hình thức kết cấu cú pháp. Điệp ngữ phủ định và câu hỏi tu từ, bài thơ Tiếng thu đã được Lưu Trọng Lư thể hiện tới toàn bích trong hơi thở thấm đẫm của văn học lãng mạn thời Thơ Mới. Nhà thơ Nguyễn Vỹ từng viết: “Lưu Trọng Lư bước vào làng thơ Việt Nam, gót chân lơ đễnh, cặp mắt ngơ ngác, nụ cười xa vắng, tay cầm một quyển truyện mỏng của anh vừa in xong, nhan đề Người sơn nhân. Một quyển truyện?
Thật ra, không hẳn là một quyển truyện. Nhan đề Người sơn nhân cũng không hẳn là sơn nhân. Có thể gọi đó là một bài thơ cũng được. Và có thể đổi nhan đề là Người thi nhân cũng được Lưu Trọng Lư đâu có biết Lưu Trọng Lư là thi sĩ. Lưu Trọng Lư cũng không biết Lưu Trọng Lư là Lưu Trọng Lư… Dễ thương làm sao?”
Còn nhà phê bình Hoài Thanh trong Thi nhân Việt Nam thì viết: “Ở đời này, ít có người lơ đãng hơn. Thi sĩ đời nay họ khôn lắm, có khi ranh nữa. Và yêu thơ, thường ta chẳng nên biết người. Thiệt thòi cho họ và thiệt thời ngay cho mình. Những yêu thơ Lư mà quen Lư thì vô hại, vì đời Lư cũng là một bài thơ. Nếu quả như người ta vẫn nói, thi sĩ là mời ké ngơ ngơ ngác ngác chân bước chập chững trên đường đời, thì có lẽ Lư thi sĩ hơn ai hết.”
Có lẽ thế nên khi viết riêng về Tiếng thu, mặc dù có ý rằng Lưu Trọng Lư ảnh hưởng một bài thơ Nhật Bản, Nguyễn Vỹ vẫn cứ cho rằng thơ Lưu Trọng Lư đâm đặc chất thi sĩ hơn và vì thế có ý ở trên sự tả hơn bài thơ tả cảnh của nhà thơ Sumaru từ thế kỷ VIII của Nhật Bản. Ông viết: “Lưu Trọng Lư là một ảnh tượng lơ lửng trong thời gian.
Mảnh tim của anh bay vời vợi trên khung xanh như con thều giấy, đính vào trần gian bằng một sợi tơ mỏng manh, chập chờn trong gió, vi vu trong mây. Cho nên thơ của Lưu Trọng Lư cũng phảng phất một hơi thu, một nắng hè thu mát, một khói lam chiều, một thuyền mơ phiêu dạt, một hơi tiêu man mác, một tiếng hước của con nai vàng xào xạc trên lá vàng khô…”
Ta thấy điều khác nhau ấy thật rõ ràng khi điệp ngữ phủ định “Em không nghe” được sử dụng làm môtíp chính để phát triển toàn bộ cảm xúc của tác giả. Hai lần “Em không nghe” ở khổ đầu và khố tiếp theo với các hình ảnh “trăng mờ”, “chinh phụ”, “cô phụ” đã gợi ra không khí quạnh vắng cổ điển của Chinh phụ ngâm.
Tự nhiên làm ta nhớ đến câu thơ “Mặt chinh phụ trăng dọi dọi soi”. Tiếng thu ở đây được phát hiện như tiếng thở khẽ của nỗi cô đơn. Câu hỏi tu từ được tác giả sử dụng để gợi ý định hướng độc giả lắng nghe về phía cô đơn ấy mà tác giả không trực tiếp trả lời.
Từ một ánh trăng mờ đầy ấn tượng thổn thức đến nỗi mong nhớ chồng rạo rực của người đàn bà cô độc trong căn phòng mang một màu ẩm tối, lần “Em không nghe” cuối cùng mới hướng độc giả tới nỗi bơ vơ cùng cực. Ở khổ kết này, sau phương thức chuyển nghĩa nhân cách hoá ở câu thứ hai: “Lá thu kêu xào xạc”, nỗi bơ vơ được chiếc lá mùa thu kêu lên như người, thì sự nhân cách hoá nói trên.
Chính tư tưởng của nhà thơ thời Thơ Mới đã khiến cho Lưu Trọng Lư tìm ra chữ “kêu” xuất thần đẩy bài thơ đến tầm cao, vươn tới toàn mỹ. Hai câu thơ cuối được hình thành chuyển nghĩa bằng định ngữ “vàng”. Hai màu vàng đạp lên nhau:
Con nai vàng ngơ ngác
Đạp lên lá vàng khô?
Đã tạo ra một không gian cô đơn vô bờ bến. Đấy là bước làm mới bất ngờ từ sự tả cảnh ở bài thơ cổ kia:
Con nai vàng ngơ ngác
Đạp lên lá vàng khô
Hai chất màu: “Vàng ngơ ngác” rồi đến “vàng khô” xiết lên nhau, khiến ta nhớ đến Nguyễn Gia Thiều với: “Trải vách quế gió vàng hiu hắt” và Nguyễn Du với: “Giếng vàng đã rụng một vài lá ngô”. Điều đó đã đẩy tâm trạng độc giả tới sự đồng cảm sâu sắc với tâm hồn của tác giả. Một lối chuyển nghĩa độc đáo khiến tiếng thu thấm sâu vào ta
Tiếng thu, tiếng của nỗi cô đơn, bơ vơ của con người thời không phương hưởng trong cảnh nước mất nhà tan còn ẩn dấu một dự báo về sự “cùng tắc biến” của xã hội ta thời ấy. Một dự báo về một thời chiến chinh như những thuở xưa. Hãy lắng nghe tiếng thu mà thấy.
Nhờ chất nhạc mạnh mẽ trong bài thơ, Tiếng thu được khá nhiều nhạc sĩ của các thế hệ khác nhau phổ nhạc. Thời tiền chiến thì có Võ Đức Thu Lê Thương. Thời bây giờ thì có Phan Huỳnh Điểu, Hữu Xuân và Hoàng Phức Thắng.
Nghe Tiếng thu được hát lên cũng thấy nao nao xúc động. Nhưng thú thực, khi tự mình đọc Tiếng thu lên để nghe hai màu vàng đạp lên nhau trong tâm tưởng, mới thấy cái tuyệt đỉnh của thơ mà không một sự thêm vào nào làm nó mới được hơn nữa, hay hơn được nữa. quyến rũ như mùa thu.