Logo

Bài văn mẫu thuyết minh về nét văn hóa đặc sắc của Hà Tĩnh lớp 10 chọn lọc

Văn mẫu 10 thuyết minh về nét văn hóa đặc sắc của Hà Tĩnh hay nhất giúp các em nắm được dàn ý, bổ sung vốn từ, cách viết bài tập làm văn, có file tải word, pdf miễn
3.0
7 lượt đánh giá

Top 4 bài văn mẫu thuyết minh về nét văn hóa đặc sắc của Hà Tĩnh Văn 10 tuyển chọn, hay nhất sẽ giúp các em học sinh đưa ra các lập luận, lý lẽ chính xác và ý nghĩa nhất để hoàn thành xuất sắc bài viết của mình.

Thuyết minh về nét văn hóa đặc sắc của Hà Tĩnh​​​​​​​ Ngữ Văn lớp 10 mẫu 1

Văn hoá văn nghệ dân gian Hà Tĩnh trong vùng văn hoá văn nghệ dân gian xứ Nghệ hay Nghệ Tĩnh, nói cách khác là giữa 2 tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh, chỉ cách nhau có con sông Lam và mới tách tỉnh 180 năm nay; vậy, có gì đồng nhất và có gì khác biệt.

Được vinh dự mời viết bài tham dự hội thảo khoa học với đề tài nói trên trong dịp kỉ niệm 180 năm (1831-2011) tỉnh Hà Tĩnh ra đời, tôi thấy khó viết quá. Bởi tôi đã khẳng định rằng: Trong cả một quá trình lịch sử, Nghệ An và Hà Tĩnh đã bao đời đổi thay, khi là một huyện, một quận, một châu, một trại, một thừa tuyên, một xứ, một trấn, một tỉnh… khi là hai lộ, hai trại, hai phủ, hai châu, hai tỉnh,… địa vực có khi rộng khi hẹp, khi tên này khi tên khác nhưng nó vẫn là một dải đất trải dài từ khe Nước Lạnh cho đến đèo Ngang với hơn 200 km bờ biển, với vùng đồng trung du rộng lớn, với miền núi mênh mông, giàu sản vật, chiếm hơn 2/3 toàn bộ diện tích… gắn bó với nhau về tất cả các mặt: địa lý, lịch sử, kinh tế, văn hoá, phong tục tập quán, ngôn ngữ,… mà sông Lam núi Hồng là tượng trưng cho tinh thần gan góc hiên ngang, cho tinh thần hiếu học, trọng đạo lý làm người của những con người yêu nước, yêu quê hương đã bao đời khai khẩn, sinh sống, chiến đấu dũng cảm, lao động cần cù, luôn có sức sáng tạo mãnh liệt về mặt văn hoá, văn nghệ để bảo vệ và xây dựng quê hương, đất nước, muốn làm cho quê hương xứ sở rạng rỡ về mặt tài hoa, mặt học vấn.

Nằm chung trong khối thống nhất của đất nước Việt Nam từ Nam chí Bắc, vùng Nghệ Tĩnh cũng như một số vùng khác trong cả nước, có một số nét đặc thù. Những nét đặc thù này không đè lên, không làm mờ đi những đặc điểm chung của cả nước mà chỉ làm phong phú thêm, đa dạng thêm, tô đậm thêm những đặc điểm, những nét thuộc về bản sắc của văn hoá dân tộc Việt Nam.

Xứ Nghệ không được tạo vật cưu đương, đồng bằng cằn cỗi, khí hậu khắc nghiệt, đã từng là biên trấn, trấn địa, đất căn cứ, đất lập nước của nhiều đời,.. song về mặt văn hoá, văn nghệ dân gian lại rất phong phú, phong phú vào bậc nhất, so với tất cả các địa phương khác trên toàn quốc. Đã bao đời rồi, cái gia tài vô giá ấy là ngọn nguồn nuôi dưỡng tinh thần, là cơ sở văn hoá, là trí tuệ và tài năng, là sức mạnh vật chất, là động lực phát triển của bà con xứ Nghệ.

Với văn nghệ dân gian, ở cái đất Hoan Diễn này có tất cả các loại hình từ ca dao, dân ca, câu đối, tục ngữ, thành ngữ, vè, truyện kể,… như văn nghệ dân gian toàn quốc. Có thể nói đó là một gia tài văn nghệ dân gian hoàn chỉnh.

Hoàn chỉnh không phải về thể loại, mà còn hoàn chỉnh về nội dung, về mức độ phản ánh các sinh hoạt xã hội, về đấu tranh chống ngoại xâm và các lực lượng hắc ám; về thể hiện nội tâm, tình cảm; về đạo lý và các mối quan hệ trong cuộc sống,… đó là nét chung nhất.

Nhưng giữa 2 tỉnh, Hà Tĩnh có những nét gì khác?

Thứ nhất là về mặt ngôn ngữ, trong hai tỉnh không phát âm sáu thanh như ngôn ngữ phổ thông mà thương chỉ có 5 thanh, thậm chí chỉ 4 thanh, 3 thanh. Song ở Hà Tĩnh, bức tranh thổ ngữ khá đa dạng. Tiếng nói của người Nghi Xuân tựa như tiếng người Nghi Lộc ở Nghệ An. Tiếng nói của người Can Lộc, Thanh Hà,… còn mang khá nhiều từ cổ, có người cho đó là ngôn ngữ Việt - Mường như Kẻ Trù, Chợ Lù (ở xã Phù Lưu cũ). Tiếng nói của người Đức Thọ thường có âm đôi như ôông/ông, sôống/sống,… và các từ khác như eng/anh; bọ/bố,.. vấn đề này đã được nhiều người đề cấp.

Thứ hai, trên địa bàn Hà Tĩnh không có hoặc có ít các dân tộc thiểu số, chỉ người Chứt ở Hương Khê, mà người Chứt cũng nằm trong ngữ hệ Việt - Mường, còn trên địa bàn Nghệ An có 5 dân tộc thiểu số chung sống. Đó là các dân tộc: Thái, Thổ, Khơ Mú, Ơ Đu, H’mông. Đông nhất là người Thái, Hà Tĩnh cũng có người Thái cư trú nhưng chỉ có 2 bản ở Sơn Lâm và Sơn Kim thuộc huyện Hương Sơn. Các dân tộc thiểu số nói trên, dù dân số ít nhiều, đều có một gia tài văn hoá, văn nghệ dân gian nhất định. Gia tài văn hoá văn nghệ dân gian của các dân tộc thiểu số ấy đã cùng với gia tài văn hoá văn nghệ dân gian của người Việt làm cho gia tài văn hoá văn nghệ dân gian Nghệ An phong phú hơn, nhiều sắc thái văn hoá hơn.

Thứ ba, hai thổ sản đặc biệt của xứ Nghệ là hát ví và hát giặm. Hát ví phổ biến ở cả Hà Tĩnh và Nghệ An, song đậm đà nhất là ở Nam Đàn và thượng Can Lộc, Hát giặm, nhất là hát giặm trai gái phần lớn thường chỉ lưu hành ở các huyện Can Lộc, Thạch Hà, Cẩm Xuyên, Kỳ Anh.

Nhưng trước hết, hát giặm là gì? Có người cho rằng giặm là giẫm chân và hát giặm là lối hát có đánh nhịp bằng chân. Lại có người cho rằng, tiếng giặm xuất phát từ tính phân đoạn trong một bài hát giặm. Còn có người cho rằng, giặm là giắm vào, điền vào như Giắm lúa. Ý kiến này căn cứ vào những câu lãy trong một bài hát giặm.

Cố giáo sư Nguyễn Đổng Chi cho rằng hát giặm có hai làn điệu là hát nói và hát ngâm, chủ yếu là hát nói. Hát nói của hát giặm tạo cho người nghe một cẩm giác đều đều, chắc gọn, nặng nề. Phương ngữ xứ Nghệ có câu:

Dại nhất là thổi tù và,

Thứ nhì hát giặm, thứ ba thả diều.

Mặc dù có vần, có âm, có điệu. Nó phản ánh một loại dân ca ở trình độ còn thô sơ. Cách hát của giặm thường có ngâm mà không rung nghe đều đều mà mặt mũi không được tròn trĩnh xinh tươi cho lắm nên phương ngữ xứ Nghệ còn có câu: hát giặm đồng đôi, mạt to như cái nồi, còn ngồi hát giặm”, nghe nhiều thường nhàm chán. Giáo sư cho rằng: “Hát giặm phản ánh một thứ lao động nào đó tương đối mệt nhọc, đều đều như đi đường, giã gạo, leo núi,v.v… hoặc phải chăng nó ảnh hưởng của một công cuộc sinh hoạt hãy còn thô sơ, đơn điệu ở chỗ núi rừng”. Đúng là như vậy nhất là câu láy. Câu láy không phải là giắm vào như giắm lúa, hay điền vào như điền vài đoạn nan trong cái rổ bị rách. Theo chúng tôi, câu láy là tiếng vang lại (é cho) của tiếng nói nơi núi rừng. Khi chúng ta đi vào nơi núi rừng có nhiều vách đá thẳng tắp cheo leo; nói to một câu chúng ta thường nghe vọng lại tiếng nói của chính mình. Câu láy lại của câu cuối một đoạn hay một khúc của bài giặm có thể là tiếng vọng đó. Vùng phía nam Hà Tĩnh xưa kia núi rừng nhiều, mà hát giặm thường lưu hành mấy huyện phía Hà Tĩnh, như đã nói trên, cho nên có thể nói Hà Tĩnh là quê hương, là nơi xuất phát ban đầu của hát giặm. Tóm lại với địa hình của mình, Hà Tĩnh đã cung cấp cho gia tài dân ca xứ Nghệ, dân ca toàn quốc một loại hình hát giặm độc đáo mà sức sống của nó tồn tại mãi đến hôm nay.

Thứ tư, Hà Tĩnh có nhiều nhà thơ nhà văn làm sáng rực lâu dài văn học dân tộc như đại thi hào Nguyễn Du và truyện Kiều, Nguyễn Huy Tự với Hoa tiên truyện, Nguyễn Công Trứ tài hoa với những bài ca trù,… và bao danh sĩ khác nữa. Họ đều đi chơi hát ví nhất là hát ví phường vải. Giáo sư Hoàng Xuân Hãn gọi họ là “Văn phái Hồng Sơn”. Giáo sư cho rằng: “Hát ví nói chung, hát phường vải nói riêng bằng văn lục bát không những có ảnh hưởng đến văn phái Hồng Sơn mà còn cho ta thấy sự phôi thai của áng văn kiệt tác là văn Kiều”. Ông Nguyễn Tất Thứ trên “Tiểu thuyết thứ bảy” số tháng 6 năm 1944, cũng đánh một tiếng chuông thứ hai để hoạ lại cái chính kiến của Giáo sư Hoàng Xuân Hãn. Ông nói: “Theo tôi thì từ Hoa tiên truyện, Mai Đình mộng ký đến Đoạn Trường Tân Thanh, văn phái Hồng Sơn là một con bướm vàng rực rỡ đã được dạo qua làn hương phấn của chùm hoa phong dao”. Hai ông ấy đã nói đúng. Nhân dân với tài năng sáng tạo của mình đã sáng tạo nên ca dao, dân ca, hát ví phường vải về mặt ngôn ngữ đã xây dựng nền nghệ thuật về ngữ ngôn. Nhà văn nhà thơ tiếp thu nó một cách đầy đủ và tiêu hoá nó đến sáng tạo nên những lời ca, câu thơ bất hủ. Có thể nói nhân dân là tác giả ban đầu đã thầm lặng giúp đỡ những nhà thơ như Nguyễn Du về cả hai mặt ngôn ngữ nghệ thuật và cả tư tưởng tình cảm. Đương nhiên chúng ta không phủ nhận tài năng sáng tác của cá nhân nghệ sĩ, nghệ sĩ phải có tài năng sáng tác thật sự, phải có cá tính sáng tạo rõ ràng thì trong sáng tác nghệ thuật của mình mới có tác phẩm lớn được. Trường hợp Nguyễn Du và nhiều nhà văn cổ điển khác trong Văn phái Hồng Sơn đã được sự giúp đỡ thầm lặng và có phần trực tiếp nữa khá nhiều của nhân dân Hà Tĩnh qua hát giặm, hát ví như hát ví phường vải, hát ví phường nón, hát ví phường đan,… Đó là nét gắn bó hữu cơ và khá nổi trội của văn nghệ dân gian Hà Tĩnh với các nhà văn chuyên nghiệp. Ở Nghệ An chưa thấy rõ điều đó.

Thứ năm là thời gian và không gian văn hoá của một cuộc hát ví hay hát giặm cũng như thủ tục một cuộc hát ví, hát giặm ở Hà Tĩnh có vẻ cơ động hơn, linh hoạt hơn. Về thời gian và không gian văn hoá, không nhất thiết phải là ban đêm và trong nhà, trong sân với ngoài ngõ, ngoài đường và đủ ba chặng bảy bước. Cứ xem cuốn Hát giặm Nghệ Tĩnh của giáo sư Nguyễn Đổng Chi thì rõ, trai gái đi củi hay đi làm đồng về, nghỉ đâu đó thì địa điểm nghỉ ngơi ấy cũng là không gian văn hoá của một cuộc hát ví giặm như tại khe Giao, truông Bát,… chẳng hạn.

Tôi có thể giới thiệu vài ba nét dị biệt nữa giữa văn hoá văn nghệ dân gian Hà Tĩnh với văn hóa văn nghệ dân gian Nghệ An. Qua 9 tập trong “Kho tàng vè xứ Nghệ”, 4 tập trong “Kho tàng truyện kể xứ Nghệ”, 2 tập trong “Kho tàng ca dao xứ Nghệ” và một số tập sách khác viết về văn hoá, văn nghệ dân gian xứ Nghệ”, đó đây tôi đã đề cập ít nhiều. Giờ đây tôi không muốn viết lại, xin các bạn lượng thứ.

Văn mẫu lớp 10 thuyết minh về nét văn hóa đặc sắc của Hà Tĩnh mẫu 2

Nếu có dịp về với mảnh đất Hà Tĩnh, chắc hẳn ai cũng đã thưởng thức đặc sản truyền thống nơi đây, đó chính là kẹo “Cu Đơ” - loại kẹo mà ai nghe đến cũng phải “ồ” lên vì cái tên lạ và gợi nhiều tò mò này. Khi thưởng thức kẹo Cu Đơ, chắc chắn bạn sẽ được trải nghiệm hương vị độc đáo từ món kẹo giản dị mà vẫn nổi tiếng này. Đó chính là hương vị ngọt ngào từ mật mía, vị bùi bùi của bánh tráng, cộng với cái béo từ lạc và mùi thơm nồng của gừng. Tất cả những nguyên liệu làm nên kẹo Cu Đơ hòa quyện với nhau, tạo nên một hương vị đặc trưng mà chỉ loại kẹo này mới có.

Theo những người dân ở đây thì kẹo Cu Đơ xuất phát từ vùng Hương Sơn, Hà Tĩnh. Mới đầu, người ta chỉ gọi là kẹo lạc cụ Hai, vì cụ là người đầu tiên làm ra loại kẹo này. Dân gian thường giải thích rằng chính người Pháp đã tạo nên tên gọi kẹo Cu Đơ, vì người Pháp đọc từ “cụ” là “cu”, từ “hai” (số 2) đọc là “đơ” (deux).

Theo nhà thơ, nguyên giảng viên Đại học Tổng hợp Huế Nguyễn Hồng Trân, người ta thường truyền cho nhau câu chuyện rằng từ thời Pháp thuộc, có một vị người Pháp đi qua Hà Tĩnh, những người dân ở đây đã mời ông uống một bát nước chè xanh nóng và ăn một miếng kẹo được bọc trong lá chuối khô. Ông Pháp đó cũng cầm miếng kẹo ăn ngon lành, vừa ăn vừa uống nước chè xanh, rồi thốt lên: “Délicieux” (ngon tuyệt vời). Sau đó ông dò hỏi về loại kẹo ngon kì lạ này, người dân đã chỉ cho ông nhà cụ Hai (làng Thịnh Xá, Hương Sơn) - nơi đã sản xuất ra loại kẹo này. Vị người Pháp tìm về nhà cụ Hai và mua hết thảy số kẹo mà cụ đang có để làm quà cho bạn bè và người thân. Ông ta bỏ vào hộp và đề là Gâteau de Cu DEUX (bánh CU ĐƠ) lên trên mỗi hộp và gửi tặng bạn bè ở Paris. Từ “de” trong tiếng Pháp dưới tên dòng tộc như là biểu hiện dòng dõi quý tộc. Từ đó lan truyền ra cái tên kẹo Cu Đơ ngộ ngộ, vui vui này.

Kẹo Cu Đơ ngon là kẹo mà khi ăn phải hội đủ các vị béo bùi của lạc, ngọt ngào của đường mía, hương vị thơm nồng cay cay của gừng tươi, pha một chút chua nhẹ của chanh cùng với bánh tráng được nướng đúng độ, tạo nên hỗn hợp bánh giòn tan và ngọt bùi.

Để làm ra miếng kẹo Cu Đơ vừa thơm vừa giòn thì không phải ai cũng có thể làm được. Trước tiên phải chọn mật mía nguyên chất, vàng óng. Rồi lạc phải là loại lạc nhỏ hạt, không bị lép hay mốc, không được để trầy hết vỏ lụa ngoài của lạc. Và cuối cùng là bánh tráng - khuôn làm bánh nhỏ hơn kiểu bánh thường, chuyên dành làm kẹo; bánh tráng có các mép quăn đều, lõm giữa, khi nướng không được để nứt, thủng, vỡ và phải chín đều. Tuy nhiên, điều quyết định chiếc kẹo Cu Đơ ngon chính là kỹ thuật nấu. Mật được đun thật sôi, cho một ít gừng thái nhỏ và lạc rang vào rồi khuấy đều để lạc không bị chìm xuống đáy nồi và bị cháy. Cứ khuấy đều tay đến khi nào ngửi thấy mùi thơm, người thợ làm kẹo sẽ dùng đũa lấy một ít mật nhỏ vào nước lạnh, nhìn thấy giọt mật rơi vào nước không bị bẹp và không tan loãng ra là đạt yêu cầu.

Nơi nổi tiếng làm kẹo Cu Đơ là phường Đại Nài, Hà Tĩnh. Phường này nằm ở gần Cầu Phủ nên được gọi là “Cu Đơ Cầu Phủ” và đã tạo thành thương hiệu riêng. Những hộ dân ở đây hầu như nhà nào cũng nấu kẹo nên người ta gọi phường này là “Làng Cu Đơ”.

Bạn Hà Giang quê ở Hà Tĩnh, hiện đang học tập và làm việc tại thành phố Hồ Chí Minh, tự hào khi nói về kẹo Cu Đơ quê hương: “Mỗi lần có dịp về quê, bạn bè ở trong ni đều dặn nhất định phải mang kẹo Cu Đơ vào. Cho nên, lần nào về mình cũng mang đi vài túi kẹo để làm quà cho mọi người. Có rất nhiều chỗ bán kẹo Cu Đơ, nhưng đối với mình thì Cu Đơ Thư Viện của Cầu Phủ là ngon nhất, tuy giá có cao hơn những điểm khác, nhưng vẫn rất đông người mua.”

Bạn Thái Văn Chính, sinh viên năm 3, trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội cũng hào hứng kể: “Mình từ Hà Tĩnh ra Hà Nội học. Ngày đầu nhập học, mình mang theo kẹo Cu Đơ để làm quà quê. Lúc đầu, đám bạn còn ngại không muốn ăn, nhưng khi đã nếm thử thì đều tấm tắc khen ngon. Sau vài lần ăn kẹo Cu Đơ, các bạn mình đâm “nghiện” cái vị ngọt ngọt, bùi bùi lại thơm nữa. Nên khi mình về quê, việc mang Cu Đơ làm quà là điều không thể thiếu”.

Du khách khi đến Hà Tĩnh thường ghé qua các cửa hàng bán kẹo nổi tiếng để thưởng thức kẹo Cu Đơ và mua về làm quà cho người thân, bạn bè. Với những người con quê hương Hà Tĩnh, cứ mỗi lần đi xa lại mang theo vài bịch kẹo Cu Đơ để làm quà cho bạn bè hay để gửi cho những người con nơi xa xứ đang ngóng về quê mẹ. Bởi vì, người Hà Tĩnh xem kẹo Cu Đơ như là linh hồn của quê hương, vừa giản dị, chân phương, lại ngọt ngào tình quê. Nó gợi lại trong tâm hồn những người con xa xứ bao cảm xúc về mảnh đất khô cằn sỏi đá nhưng vô cùng ấm áp và bình dị này.

Thuyết minh về nét văn hóa đặc sắc của Hà Tĩnh Văn 10 hay nhất mẫu 3

“Ôi gió Lào ơi ! Người đừng thổi nữa

Những ruộng đói mùa, những đồng đói cỏ

Những đồi sim không đủ quả nuôi người

Cuộc sống gian lao ít tiếng nói cười

Chỉ tiếng gió mù trời chen tiếng súng"

Đọc những tâm sự của nhà thơ Chế Lan Viên viết về quê mẹ Quảng Trị, lòng tôi cứ thao thức âm thanh khô nóng của tiếng gió Lào trên mảnh đất Hồng Lam – Mảnh đất được ví như bà mẹ nghèo vắt sữa, thao thức nuôi lớn những người con tráng kiệt. Những người con Hà Tĩnh tuy không khéo léo, dịu dàng như người xứ khác nhưng đằng sau cái vẻ chân chất, mộc mạc ấy, là những con người sâu nặng nghĩa tình, không những nặng tình đất nước mà còn nặng tình yêu quê hương. Có thể nói, không ở đâu như ở Việt Nam này, mỗi một địa danh, mỗi một tên làng, tên xóm, mỗi một con đường… sau hàng ngàn năm lịch sử, đặc biệt, trải qua hai cuộc kháng chiến thần thánh chống giặc ngoại xâm trong thế kỷ 20, đều trở thành huyền thoại. Mỗi một gia đình, mỗi một dòng họ, mỗi một cộng đồng người, cho đến cả một dân tộc, trải qua bao thăng trầm của lịch sử… đã hình thành nên truyền thống của riêng mình, có một không hai. Người Hà Tĩnh cũng vậy, dù đi đến đâu cũng được coi là những con người của một vùng đất học, vùng đất của truyền thống học hành và khoa cử, của "vùng quê của mưa chan, nắng cháy nhưng thiên tai càng nghiệt ngã thì con người càng được tôi rèn thêm ý chí, tạo đủ mọi nghề, cần cù chịu khó, sáng tạo vươn lên".

Là một trong những vùng có dân cư sinh sống từ rất sớm trong lịch sử, hiện nay dân số Hà Tĩnh có 1.286.700 người, mật độ dân số 212 người/km2. Trên địa bàn Hà Tĩnh có các dân tộc Kinh, Lào và Chứt cùng sinh sống, nhưng chủ yếu là người Kinh. Trải qua quá trình lịch sử, lao động, sản xuất, học tập và chiến đấu, con người Hà Tĩnh đã hun đúc nên những truyền thống cực kỳ quý báu. Trong đó, có thể nói truyền thống yêu quê hương, đất nước và tinh thần đoàn kết, gắn bó đã làm đẹp thêm truyền thống văn hóa của người Hà Tĩnh.

Trước hết là truyền thống yêu quê hương, đất nước. Người dân Hà Tĩnh vốn có lòng yêu quê hương, yêu nước nồng nàn và ý chí kiên cường bất khuất trong đấu tranh chống ngoại xâm. Trong một thời gian dài của lịch sử, vùng Hà Tĩnh từng được coi là miền đất "phên dậu" của Tổ quốc. Mở đầu là những cuộc đấu tranh hưởng ứng cuộc khởi nghĩa của nhân dân quận Nhật Nam trong những năm giữa thế kỷ II chống lại ách thống trị của phong kiến phương Bắc. Từ đó, phong trào đấu tranh của nhân dân Hà Tĩnh liên tục diễn ra. Đỉnh cao là cuộc khởi nghĩa của Mai Thúc Loan (quê ở làng Mai Phụ, Thạch Hà - nay là Lộc Hà) nổ ra vào năm 713 chống lại bọn xâm lược nhà Đường. Cuối thế kỷ thứ X, đầu thế kỷ XI, Cao Minh Hựu, một danh tướng quê ở Phi Lộc (Can Lộc ngày nay) đã giúp Lê Hoàn đánh tan quân xâm lược Tống trên sông Hương Đại - Bạch Đằng…

Trong suốt thời kỳ phong kiến độc lập (từ thế kỷ X trở đi), miền đất Nghệ -Tĩnh nói chung và Hà Tĩnh nói riêng từng là trung tâm của nhiều cuộc kháng chiến chống ngoại xâm. Đầu thế kỷ XV, nhân dân Hà Tĩnh đã vùng dậy khởi nghĩa chống giặc Minh xâm lược. Tiêu biểu là tấm gương Đặng Tất (Can Lộc) trong cuộc khởi nghĩa Trần Ngỗi; Đặng Dung (con Đặng Tất) và Nguyễn Biểu (huyện Chi La - Đức Thọ) trong cuộc khởi nghĩa Trần Quý Khoáng…

Từ năm 1425, vùng Đỗ Gia (Hương Sơn) được chọn làm một trong những căn cứ chiến lược quan trọng, là "đất đứng chân" của nghĩa quân Lam Sơn. Vùng Hà Tĩnh đã đóng góp cho nghĩa quân Lam Sơn những danh tướng tiêu biểu như Nguyễn Tuấn Thiện (Đỗ Gia - Hương Sơn), Nguyễn Biên (ở Can Lộc, sau dời vào Cẩm Xuyên), Lê Bôi (Đức Thọ)…

Trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược nhà Thanh do Quang Trung Nguyễn Huệ lãnh đạo (thế kỷ XVIII) vùng Hà Tĩnh đã góp phần xứng đáng làm nên chiến thắng của đại quân Tây Sơn. Nhiều người con Hà Tĩnh đã trở thành những chiến binh tinh nhuệ, những tướng sĩ đầy thao lược; tiêu biểu như La Sơn Phu tử Nguyễn Thiếp (Đức Thọ), Dương Văn Tào (Cẩm Xuyên), Hồ Phi Chấn (Thạch Hà), Đặng Quốc Đống (Nghi Xuân)…

Trong những năm đầu dưới thời nhà Nguyễn (đầu thế kỷ XIX), nhân dân Hà Tĩnh đã nhiều phen vùng dậy chống lại ách thống trị hà khắc của quan lại cường hào, phong kiến. Tiêu biểu là cuộc khởi nghĩa của nhân dân Hương Sơn do Lê Hữu Tạo lãnh đạo (1818); khởi nghĩa Phan Bô (1833 - 1837) ở Thạch Hà... Phong trào đấu tranh của nhân dân còn tiếp diễn trong suốt nhiều năm của triều Nguyễn.

Trong những năm kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược và phong kiến tay sai, Hà Tĩnh là trung tâm của phong trào Cần Vương, của các phong trào yêu nước đầu thế kỷ XX; Có thể nói cuộc Khởi nghĩa Hương Khê do các nhà chí sỹ yêu nước của quê hương Hà Tĩnh lãnh đạo là đỉnh cao nhất của phong trào Cần vương cuối thế kỷ 19, kéo dài suốt 10 năm, có quy mô rộng lớn, có tổ chức tương đối chặt chẽ, lập được nhiều chiến công và gây cho quân Pháp tổn thất nặng nề. Cuộc khởi nghĩa đã huy động đến mức cao độ sự ủng hộ và tiềm năng to lớn của nhân dân (người Kinh và người Thượng, của cả đồng bằng và miền núi). Về quân sự, nghĩa quân đã biết sử dụng những phương thức tác chiến linh hoạt, chủ động, sáng tạo trong quá trình chuẩn bị lực lượng cũng như khi giao chiến với đối phương. Mặc dù thất bại, nhưng cuộc khởi nghĩa đã là minh chứng hùng hồn nhất cho truyền thống yêu nước nồng nàn của con người Hà Tĩnh.

Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, Đảng bộ và nhân dân Hà Tĩnh đã cùng với Đảng bộ và nhân dân Nghệ An làm nên cao trào Xô viết Nghệ - Tĩnh, đỉnh cao của cao trào cách mạng 1930 -1931 do Đảng lãnh đạo. Trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Hà Tĩnh là một trong 4 tỉnh giành chính quyền về tay nhân dân sớm nhất cả nước. Thời kỳ chống Mỹ cứu nước, Hà Tĩnh là hậu phương vững chắc, vừa thực hiện tốt nhiệm vụ chi viện cho tiền tuyến miền Nam, vừa trực tiếp chiến đấu bảo vệ quê hương, cùng cả nước đánh thắng giặc Mỹ xâm lược, thống nhất Tổ quốc. Trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội, đặc biệt là trong công cuộc đổi mới, Đảng bộ và nhân Hà Tĩnh đã phát huy truyền thống quý báu của cha anh đi trước để xây dựng quê hương ngày càng giàu đẹp, văn minh. Trong lớp lớp những chiến công oanh liệt trong thời chiến cũng như thời bình của quê hương Hà Tĩnh, nổi lên những câu chuyện về những anh hùng, những người con mang cốt cách và tâm hồn Hà Tĩnh. Mỗi câu chuyện về các anh, các chị không chỉ làm rạng rỡ quê hương Hồng Lam, mà còn là tấm gương sáng ngời chủ nghĩa anh hùng cách mạng cho thế hệ trẻ hôm nay và mai sau noi theo. Họ là những thanh niên tuổi đời còn rất trẻ nhưng đã mang trong mình truyền thống yêu nước ngàn đời của dân tộc.

Bên cạnh tình yêu quê hương, đất nước nồng nàn, người Hà Tĩnh còn mang trong mình truyền thống đoàn kết gắn bó, tương thân tương ái, sống có nghĩa tình, thuỷ chung, giản dị và tiết kiệm trong cuộc sống. Đối với những người dân lao động Hà Tĩnh, từ những thói quen, sinh hoạt hàng ngày cũng đều chan chứa yêu thương. Quả cà chua (dân Nghệ còn gọi là quả cà kiu) có gì cao giá lắm đâu, nhưng canh cà chua thì thật nhiều thương nhớ:

Nồi dấm mà nấu cà kiu

Anh ăn mát ruột chín chiều thương em.

Chỉ mấy bát nước chè xanh chiều tối bày trên chiếc chiếu trải giữa đất, hay trên những chiếc chõng tre, để mời bà con chòm xóm quây quần nhấm nháp. Nhưng những đọi nước (bát nước) ấy là cả nghĩa tình:

Chè ngon nước chát xin mời

Nước non, non nước nghĩa người khó quên.

Dường như sinh sống trong vùng có vị trí địa lý đặc biệt, khí hậu khắc nghiệt, người dân Hà Tĩnh thường xuyên phải đối mặt với sự tàn phá nặng nề của thiên tai và giặc ngoại xâm nên sớm hình thành truyền thống đoàn kết, gắn bó, tương thân tương ái, sống có nghĩa tình, thuỷ chung. Mỗi khi Tổ quốc, quê hương bị lâm nguy trước sự xâm lăng của quân thù hay trước sự tàn phá của thiên tai, truyền thống tốt đẹp đó lại được phát huy cao độ. Phải chăng chính sự khắc nghiệt của thiên nhiên đã tạo nên phẩm chất cần cù, chịu thương chịu khó của con người Hà Tĩnh. Nhờ có sự đoàn kết, người dân nơi đây mới chống chọi lại được với thiên tai, địch họa. Để rồi, trong khó khăn gian khổ, con người Hà Tĩnh đã vươn lên tạo dựng cho mình một đời sống văn hóa, tinh thần rất phong phú, đa dạng, giàu bản sắc, tô thêm truyền thống văn hóa Việt Nam ngàn năm văn hiến. Là một vùng quê nằm trên dải đất miền Trung thiên nhiên không mấy ưu đãi, nhưng Hà Tĩnh thường được coi là nơi 'Địa linh nhân kiệt'. Trong khó khăn gian khổ, con người đã vươn lên tạo dựng được một đời sống tinh thần phong phú, để lại cho muôn đời sau những giá trị văn hoá to lớn và tên tuổi của các bậc danh nhân tiêu biểu. Nhiều làng quê ở Hà Tĩnh nổi tiếng văn chương, khoa bảng và cũng rất đổi anh hùng. Tất cả những truyền thống văn hoá đó sẽ mãi là di sản quý báu đang được lưu giữ và phát huy.

Hà Tĩnh có lịch sử khá sớm, những di khảo cổ học cho thấy các quần cư của người Việt cổ đã tồn tại cách đây hàng ngàn năm. Cuộc sống sản xuất, đấu tranh với thiên tai, giặc dã khiến con người nơi đây vừa gan dạ, vừa lạc quan yêu đời, gắn với một nền văn nghệ dân gian dồi dào mà đậm đà chân chất. Từ truyện kể dân gian, truyện cười, những sự tích về núi sông đến các hình thức giao lưu bằng nghệ thuật múa, hát dân ca, kể chuyện ... thật phong tình và mộc mạc. Quanh núi Hồng Lĩnh còn có cả một kho tàng văn hoá tiềm ẩn đang được khơi dậy; truyền thuyết núi Hồng với 99 ngọn đang là nguồn cảm tác của thi ca và đưa ta về câu chuyện có phải đây là quê hương của người Việt cổ?

Núi Hồng Lĩnh với 99 ngọn cùng sông Ngàn Phố, sông Ngàn Sâu và sông La, sông Lam là nguồn cảm hứng cho các thế hệ thi nhân, nhạc sĩ và cũng là cái nền làm nên giai điệu dân ca sâu lắng. Núi Hồng Lĩnh là một trong số ít các địa danh được khắc vào Bách khoa thư cửu đỉnh hiện đang đặt tại cố đô Huế. Những tên núi, tên sông Hà Tĩnh không chỉ là cảnh đẹp thiên nhiên kỳ vĩ mà còn là nơi tích tụ nguyên khí, sản sinh ra các bậc hiền tài.

Phía đông Hồng Lĩnh là làng Tiên Điền của đại thi hào dân tộc, Danh nhân văn hóa thế giới Nguyễn Du, tác giả Truyện Kiều. Phía tây nam núi Hồng Lĩnh là làng bát cảnh Trường Lưu của dòng họ Nguyễn Huy nổi tiếng. Hai làng văn hiến ở hai sườn đông và tây núi Hồng Lĩnh ấy đã tạo nên một "Hồng Sơn văn phái" có ảnh hưởng lớn đến văn hoá lịch sử nước ta hồi cuối thế kỷ XVIII.

Hà Tĩnh có nhiều làng nổi tiếng về văn hoá, khoa bảng và làng nghề truyền thống. Các làng Tiên Điền, Uy Viễn, Đông Thái, Yên Hội, Gôi Mỹ, Thần Đầu, Trung Lễ, Bùi Xá... nổi danh về truyền thống học hành, khoa bảng và văn chương. Đây là quê hương của các danh nhân lịch sử, những nhà cách mạng của đất nước như: Sử Hy Nhan, Nguyễn Nghiễm, Phan Huy Ích tinh thông sử học; Nguyễn Thiếp giỏi lý học; Lê Hữu Trác ''Thần y' (gốc Hải Dương);

Bùi Cầm Hổ, Nguyễn Công Trứ có tài kinh bang tế thế; Đặng Dung, Nguyễn Biểu, Phan Đình Phùng với khí tiết xả thân vì dân tộc; Nguyễn Huy Oánh, Bùi Dương Lịch, Phan Nhật Tĩnh những nhà giáo xuất sắc; và Nguyễn Du - thi bá của muôn đời... Thời hiện đại, vùng đất này cũng là nơi sinh trưởng của Hoàng Xuân Hãn, Lê Văn Thiêm, Nguyễn Khắc Viện, Xuân Diệu, Huy Cận, Nguyễn Đổng Chi, Nguyễn Phan Chánh, Nguyễn Đình Tứ và nhiều tên tuổi lớn khác... Đây cũng là quê hương của hai nhà hoạt động cách mạng: Tổng Bí thư Trần Phú và Hà Huy Tập.

Hà Tĩnh còn có nhiều làng văn nghệ nổi tiếng trong vùng như: làng hát ca trù Cổ Đạm, chèo Kiều Xuân Liên, hát ví phường vải Trương Lưu, hò ví dặm Đan Du, Phong Phú... Nhiều làng nề nếp, phong lưu có nhiều lễ hội, hương ước, phong tục như: Kim Chùy, Hội Thống, Đan Trường, Kim Đôi, Phù Lưu Thượng... Các làng truyền thống với những giọng hò nổi tiếng quanh núi Hồng Lĩnh, ven dòng sông La, sông Ngàn Sâu, Ngàn Phố đã để lại cho vùng quê Hà Tĩnh và đất nước những áng thơ văn bất hủ, những trước tác quý giá và những khí phách kiên trung. Đó là những di sản Văn hoá tiêu biểu bồi đắp cho tâm hồn người Hà Tĩnh qua nhiều thế hệ và mai sau.

Nhân kỷ niệm 250 năm ngày sinh đại thi hào Nguyễn Du, hôm nay hơn 1,3 triệu trái tim người dân núi Hồng, sông La đang nô nức chào đón sự kiện trọng đại này để khắc sâu niềm tự hào về một miền đất giàu truyền thống văn hóa và cách mạng, từ đó để nhân lên niềm tin yêu sâu sắc và sức sống mãnh liệt cùng nhau viết tiếp những trang sử vàng chói lọi cho mảnh đất và con người Hà Tĩnh.

Bài văn mẫu lớp 10 thuyết minh về nét văn hóa đặc sắc của Hà Tĩnh mẫu 4

Quê hương là chùm khế ngọt

Cho con trèo hái mỗi ngày

Quê hương là đường đi học

Con về rợp bướm vàng bay

Quê hương – Đỗ Trung Quân

Vâng! Quê hương là cái nôi của cuộc đời nuôi dưỡng tâm hồn ta từ những ngày tấm bé. Quê hương mang đến dòng sữa mẹ thơm mát ngọt ngào cùng những lời ru ầu ơ trầm lắng của bà đưa ta vào giấc ngủ say.

Thật tự hào khi tôi được sinh ra và lớn lên trên mảnh đất Hà Tĩnh thân thương – nơi khí hậu không kém phần khắc nghiệt nhưng lại được thiên nhiên ưu đãi ban cho nhiều cảnh đẹp.

Hà Tĩnh là dải đất của Tổ quốc Việt Nam có từ thời Văn Lang – Âu Lạc. Theo thời gian, Hà Tĩnh qua nhiều tên gọi, nhiều lần gộp tỉnh rồi tách tỉnh cho đến năm 1991 Hà Tĩnh là một tỉnh độc lập và cái tên ban đầu vẫn được giữ.

Là vùng đất nối tiếp Nghệ An, giáp với Quảng Bình, Hà Tĩnh có ít đồng bằng, không giống như ngoài Bắc hay trong Nam Bộ, phía Tây là dãy Trường Sơn làm chỗ dựa và phía Đông là biển cả trước mặt. Nhìn chung quê tôi là vùng đất khó khăn, khí hậu khắc nghiệt mà người xưa thường gọi là đất “ tứ đăc” – bốn bề hiểm trở. Hà Tĩnh có sông Lam nhiều thác ghềnh, trước cũng từng được xem là con sông đẹp nhất của Việt Nam.

Núi sông tạo vẻ nên thơ, vừa tạo vẻ dữ dội khi mùa thác lũ. Bên cạnh núi rừng thâm u, trùng điệp hiếm những đồng bằng xanh tốt thẳng cánh cò bay như Cửu Long, Thái Bình, tạo nên cảnh trí thiên nhiên hùng vĩ, rợn ngợp như luôn thử thách, rèn giũa con người. Con người tồn tại phải vừa kiên cường, vừa hào phóng, vừa chắt góp,bền bỉ…

Chắc rằng trong mỗi chúng ta ai cũng đã từng được nghe câu hát: “Mời anh về Hà Tĩnh đi dọc đường cái quan Vào tận Đèo Ngang rồi vòng lên Rú Lệ, Trên đường xuôi xuống bể ghé Đức Thọ, Hương Sơn, Can Lộc vào Cẩm Xuyên, Thạch Hà ra Hồng Lĩnh.” Đến Hà Tĩnh, bạn sẽ không khỏi ngỡ ngàng trước cảnh vật thiên nhiên kì vĩ nơi đây:

Chín mươi chín ngọn núi Hồng

Chín mươi chín con chim đậu, một con vùng bay đi

Núi Hồng Lĩnh (tên Nôm là Ngàn Hống hay Rú Hống, cũng đọc là Hống, tên chữ là Hồng Sơn (núi Hồng) hay Hồng Lĩnh) thuộc xã Thiên Lộc, huyện Can Lộc. Là dãy núi nổi tiếng nhất Hà Tĩnh, từng được xếp vào danh sách 21 danh thắng của nước Nam khi xưa. Cùng với sông Lam, núi Hồng Lĩnh được xem là biểu tượng hồn thiêng sông núi của xứ Nghệ.

Cùng với núi Hồng sông La, dòng Ngàn Sâu, Ngày Mọ hiền hòa, những bải biển Thiên Cầm, Thạch Hải,…góp phần tạo nên bức tranh họa đồ Hà Tĩnh.

Được thiên nhiên tạo hóa ban nhiều cảnh vật, và như để tạo sự tương khắc, hài hòa, khí hậu nơi đây không mấy dễ chịu. Mùa nóng cũng nóng hơn, đồng ruộng nứt nẻ, cỏ cây khô cháy. Gió khô gây thiếu nước, nạn cháy rừng vì vậy hay xảy ra. Cái gió Lào thô ráp vào những buổi trưa hè oi ả phả vào da thịt vừa nóng vừa rát là nét riêng chỉ có ở Hà Tĩnh, ở làn da bánh mật của mỗi con người. Cái cảm giác ấy cứ bám lấy khi đất trời vào hạ khiến ta chẳng thể nào quên được. Mùa mưa Hà Tĩnh dai dẳng không đều, lo chống hạn, lo chống lụt là hai tình trạng hiểm nghèo luôn đe dọa con người xứ này. Cuộc vật lộn với thiên nhiên khắc nghiệt góp phần tôi luyện hình thành một truyền thống, một nhân cách riêng của con người xứ Nghệ - Tĩnh.

Hoàn cảnh sống tạo nên tính cách con người Hà Tĩnh, sản sinh một nền văn hóa có màu sắc riêng, đậm tính đặc trưng và giàu tính dân tộc. Tinh thần con người Hà Tĩnh làm lộ một cách rõ rệt lòng phụng thờ, sự cố gắng cùng những tính nhẫn nại kiên quyết của một dân tộc nông nghiệp chật vật tranh giành một chỗ sống dưới mặt trời:

“Quê tôi sớm tinh mơ tiếng gà gọi cha vác quốc ra đồng.

Ai đem nắng đong đầy tới vai, cháy những giọt mồ hôi...”

Mảnh đất quê hương sinh ra nhiều anh hùng liệt nữ, hữu danh và vô danh. Tác giả “Hoan châu phong thổ kí” có viết: “ Con người Nghệ Tĩnh vẫn được tiếng là gân guốc, khô khan, con người rắn rỏi lý tính, giàu nghị lực”.

Hay: “ Tính tình cứng cỏi, ham thích văn chương, ham thích lao động và dũng cảm kiên trì chống trọi đất đai cằn cỗi để kiếm sống”. – H.Le Breton

Cũng có những ngộ nhận rằng con người Hà Tĩnh khô khan, keo kiệt, thực dụng nhưng có lẽ, nhận xét của Gs. Đặng Thai Mai vẫn là thấu tình đạt lý nhất : “… Con người ở đây đối với tự nhiên, đối với con người, đối với cái đẹp của lý tưởng, tuy không bộc lộ một cách ồn ào hời hợt nhưng lại có phần suy nghĩ, điềm tĩnh, sâu sắc và bền bỉ, cảm động đến thiết tha”.

Hà Tĩnh là đất văn vật, nổi tiếng vì nhiều người đỗ đạt cao nhưng nổi bật hơn là cốt cách con người xứ Nghệ. Cốt cách con người Hà Tĩnh từ xưa là yêu cái đẹp, hiếu trọng đạo lý. Người ta cho con đi học để biết đạo làm người, lớn lên “ xả thân thủ nghĩa”:

Con ơi mẹ dặn câu này

Chăm lo đèn sách cho tày áo cơm

Làm người đói sạch rách thơm

Công danh là nợ, nước non phải đền.

Nhân cách xứ Nghệ không dễ trộn lẫn!

Hà Tĩnh là vùng đất mà tinh thần hiếu học đã trở thành truyền thống. Nơi có những nghĩa cử khuyến học cao cả trong lịch sử. Có những xã có học điền để nuôi người nghèo học giỏi. Có những dòng họ như họ Đinh, họ Nguyễn (Hương Sơn), họ Nguyễn (Tiên Điền – Nghi Xuân), họ Phan (Thạch Hà)… thời nào cũng có người đỗ đạt.

Đây cũng là vùng đất giàu tinh thần nhân ái, tinh thần trượng nghĩa.

Lòng kiên nhẫn, chí quật cường, xả thân vì nghĩa lớn đã trở thành nếp sống của mọi người. Từ xưa, các đấng tu mi nam tử luôn mang trong mình chí làm trai, luôn có giấc mộng công danh cao đẹp. Từ câu ca dân gian:

“Làm trai cho đáng nên trai

Xuống đông đông tỉnh, lên đoài đoài yên”

Cho đến lời thơ của Nguyễn Công Trứ:

“Làm trai đứng ở trong trời đất

Phải có danh gì với núi sông”

Dường như chí anh hùng đã trở thành lý tưởng xuyên mọi thời đại. Con người đã có tầm vóc cao lớn, có hành động phi thường ắt phải mang trong mình hoài bão lớn. Tiết tháo nhà Nho đất Hồng Lam thời nào cũng sáng! Tên tuổi của Nguyễn Du, Nguyễn Biểu, Đặng Dung, Nguyễn Thiếp,…mãi còn in những dấu son trong tâm hồn nhiều thế hệ.

Nhân tài tự cổ đa hào kiệt

Văn vật như kim tất đại đồng

Con người Hà Tĩnh có những nét văn hóa không dễ phai nhạt theo thời gian!

Căm phẫn, yêu thương đều dữ dội. Dũng cảm mà vị tha, bi tráng nhưng cũng rất trào lộng.

Thời đại nào cũng sản sinh ra những con người mang dấu ấn của thời đại đó. Hà Tĩnh là mảnh đất sinh ra nhiều người con mưu trí gan góc, nhiều tài năng kiệt xuất trên đủ mọi lĩnh vực. Trải qua mấy nghìn năm lịch sử, Hà Tĩnh vẫn anh dũng tiến lên phía trước, vượt qua mọi trở ngại của quân thù, giữ vững nền độc lập cho quê hương:

Kìa Bến Thủy đứng đầu dậy trước

Nọ Thanh Chương tiếp bước đứng lên.

Nam Đàn, Nghi Lộc, Hưng Nguyên,

Anh Sơn, Hà Tĩnh một phen dậy rồi.

Tinh thần tự cường ấy là nét đẹp của người dân quê tôi, của mảnh đất địa linh nhân kiệt này. Tên tuổi của các bậc anh hùng: Phan Đình Phùng, Lý Tự Trọng, 10 cô gái thanh niên xung phong,… cùng những địa danh lịch sử: núi Nài, ngã ba Đồng Lộc,… mãi sáng ngời trong trang sử hào hùng dân tộc. Tự hào quá đi thôi!

Thiên nhiên nghiệt ngã, chinh chiến liên miên, con người Hà Tĩnh có một cảm quan thẩm mĩ chân thật, hài hòa trọng thực tế, hữu dụng, ít xa hoa, bay bướm.

Hà Tĩnh là nơi có nhiều lễ hội, phong tục ghi lại và ngợi ca cuộc sống lao động. Nhiều đền đài, di tích gắn với những sự tích, kể lại một câu chuyện cổ, gắn bó với truyền thuyết dân gian. Truyền thống văn học dân gian, đặc biệt là hát ví hát dặm, chuyện trạng,… đã làm cho nền văn hóa Hà Tĩnh có bản sắc riêng. Đã bao đời nguồn sữa này nuôi dưỡng nhiều nhà văn, thi sĩ vào đời, trưởng thành và bất tử.

Cuộc sống ngày càng phát triển, đất nước trên đà hội nhập, Hà Tĩnh được cả nước cũng như bạn bè quốc tế biết đến. Các thương hiệu nổi tiếng như cu đơ, nước mắm Cẩm Nhượng, bánh gai Đức Thọ, Rượu nếp Can Lộc,… cùng những làng nghề làm nón, dệt vải, mộc Thái Yên,…được nâng cao và mở rộng.

Chiến tranh đã lùi xa, Hà Tĩnh ngày càng đổi mới, quá trình đô thị hóa ngày một đi lên. Hà Tĩnh của bây giờ đang ngày càng phát triển, con người Hà Tĩnh ngày càng hiện đại hơn. Thật sự bất ngờ về sự phát triển nhanh chóng của quê hương mình. Với chợ tỉnh nhộn nhịp tấp nập người bán, người mua. Với con đường cao tốc dài vun vút, ánh đèn điện sáng trưng. Với những con đường nối vào tận làng xóm......

Hà Tĩnh tuy không phát triển lắm về kinh tế vật chất nhưng lại có một sức sống tinh thần mãnh liệt.Vì một ngày mai tươi sáng, quê hương chúng ta cần nhiều hơn những người con ưu tú, góp phần dựng xây mảnh đất thân thương xứng đáng như lời Gs. Nguyễn Đổng Chi đã từng nói: “Hà Tĩnh là một trong ba vùng văn hóa lớn của Việt Nam, sau Thăng Long – Hà Nội và Huế”
…Thưở nhỏ, quê hương là cái gì đó cao siêu, trừu tượng và xa vời với tôi lắm. Đi học cô giáo bảo quê hương là những gì thân thiết nhất! Tôi nghĩ quê hương chính là mẹ, là bố, là ông, là bà…Lớn thêm chút nữa tôi được nghe bài hát “Mẹ em chỉ có một trên đời” thì tôi càng chắc chắn quê hương chính là mẹ vì người ta vẫn nói:

“Quê hương mỗi người chỉ một”

Nhưng rồi hai tiếng “Quê hương” lớn dần trong tôi, lớn theo năm tháng, theo những bước chân trên mảnh đất quê hương và lớn dần theo cách nghĩ của một con bé không còn chỉ biết nằm mãi trong lòng mẹ. Nhưng trong hai tiếng quê hương tôi vẫn có mẹ, có ba, có cả ông bà.

Quên làm sao được những kỉ niệm tuổi thơ đầm ấm bên lũy tre đầu làng? Những buổi chiều tà thả diều, đuổi bướm bắt ve hay những hôm cùng lũ trẻ chăn trâu trộm lạc bẻ ngô vùi vào đống tro đang cháy dở mà ăn ngon lành. Tất cả hiện lên thật rõ nét và sinh động như chỉ mới vừa hôm qua vậy.

Quê hương là động lực thúc đẩy, giúp ta vững bước trên những chặng đường dài. Đâu đó, nơi góc khuất tâm hồn vẫn còn cất giữ bao kỉ niệm để mỗi khi lại lôi ra mà chiêm nghiệm, xoa dịu nỗi lòng sau những mệt mỏi của cuộc sống thường ngày bộn bề công việc. Và ắt hẳn như nhà thơ Đỗ Tring Quân đã từng nói:

Quê hương mỗi người chỉ một

Như là chỉ một mẹ thôi

Quê hương nếu ai không nhớ

Sẽ không lớn nổi thành người

CLICK NGAY vào nút TẢI VỀ dưới đây để tải các bài văn mẫu thuyết minh về nét văn hóa đặc sắc của Hà Tĩnh Ngữ Văn lớp 10 file word, pdf hoàn toàn miễn phí.

Đánh giá bài viết
3.0
7 lượt đánh giá
Có thể bạn quan tâm
CÔNG TY CỔ PHẦN TRUYỀN THÔNG HDC VIỆT NAM
Tầng 3, toà nhà S3, Vinhomes Skylake, đường Phạm Hùng, quận Nam Từ Liêm, Hà Nội
Liên hệ quảng cáo: tailieucom123@gmail.com
Copyright © 2020 Tailieu.com